S.T.T.D Tưởng Năng Tiến (Danlambao) - Tôi
sinh năm 1971, năm nay bước vào tuổi 44. Tuy chỉ mới độ tuổi này nhưng
tôi đã từng nghe bố tôi kể lại và cũng đã phải trực tiếp chứng kiến cảnh
gia đình tôi suốt 4 đời là nạn nhân của chủ nghĩa Cộng Sản. - M.S Nguyễn Trung Tôn
Bút Ký Những Chuyến Ra Đi
của ông Lữ Phương (nguyên) Thứ Trưởng Thông Tin Văn Hoá, Chính
Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam, có nhiều trang rất
thú vị. Đọc lai rai vài đoạn cho vui, nếu rảnh:
Vào mùa khô năm ấy, tôi xin cơ quan cho tôi đến vùng biên giới Bố Bà
Tây, liên hệ với gia đình. Lần này ngoài vợ và đứa con gái lớn, còn có
em gái tôi cùng với hai đứa con gái nhỏ của nó đi theo, lúc nhúc một
đoàn, không tưởng tượng nổi!
Nhờ chuyến thăm này tôi mới rõ được chuyện nhà từ lúc tôi ra đi. Vợ
tôi ngoài việc đi dạy học còn tìm được việc làm ở một tòa án tỉnh nữa.
Những người quen biết đều biết vợ tôi có chồng là VC, bị cảnh sát Sài
Gòn o ép, dụ dỗ nhiều cách, nhưng đều hết lòng giúp đỡ, che chở (ngay cả
những viên chức cao cấp trong chính quyền Sài Gòn): chẳng phải vì lý do
gì khác hơn là ở đây người ta chưa có thói quen “chính trị hoá” mọi
quan hệ xã hội.
Cái “chính quyền Sài Gòn” hồi đó, xem ra, khác xa (và khác
hẳn) cái chính phủ Hà Nội bây giờ. Tuần qua – vào ngày 9
tháng 4 năm 2019 – FB Trang Nguyen vừa buồn bã, và ái ngại cho hay:
VỢ MỤC SƯ NGUYỄN TRUNG TÔN BỊ AN NINH THANH HÓA KHỦNG BỐ TINH THẦN
Không chỉ thường xuyên xua quân đi canh cửa, an ninh Thanh Hóa còn
liên tục gửi giấy mời, giấy triệu tập như là một thủ trấn áp tinh thần
bà Nguyễn Thị Lành - vợ của Mục sư, TNLT Nguyễn Trung Tôn.
Chồng bị bỏ tù, một mình bà Nguyễn Thị Lành phải vất vả gánh vác gia
đình. Những ngày qua càng thêm vất vả bởi chăm mẹ chồng lớn tuổi mắc
bệnh phải nhập viện, và con bị tật nguyền. Nhưng bà Lành vẫn liên tục bị
an ninh tỉnh Thanh Hóa sách nhiễu, đe dọa…
Vợ chồng Nguyễn Trung Tôn chào đời không đúng chỗ, và cũng không đúng lúc (wrong time and wrong place)
nên gặp phải lắm nỗi gian truân. Ông bà Lữ Phương sinh sống tại
miền Nam (vào một thời điểm khác) nên cuộc sống của họ cũng
hoàn toàn khác, êm thắm và khoẻ khoắn hơn nhiều.
Hồi đó bà Lữ Phương vẫn được mọi người, “ngay cả những viên chức
cao cấp trong chính quyền Sài Gòn hết lòng giúp đỡ che chở.”
Thỉnh thoảng, bà lại cùng cả đại gia đình “lúc nhúc một đoàn”
kéo nhau vô bưng để thăm nom và chăm sóc cho đức phu quân – dù
cuộc sống trong bưng biền không thiếu thốn hay nhọc nhằn chi
cả:
Các nhân vật trong “Mặt trận 2” này đã được Đảng chăm sóc một cách
đặc biệt: bất cứ việc gì, từ sinh hoạt ăn uống, chỗ ở, quần áo, tiền
tiêu vặt mỗi tháng đều được cung cấp chu đáo bởi cả một khung cán bộ và
nhân viên chuyên lo việc tiếp phẩm và phục vụ phối hợp với một đội bảo
vệ được tuyển khá kỹ lưỡng về thành tích và lý lịch.
Chả riêng chi ăn uống, ăn nói cũng thế, cũng được Đảng bao biện tất:
Riêng đối với những bài viết, bài phát biểu mà các vị trong Liên Minh
phải trình bày hoặc trên báo chí, đài phát thanh hoặc trong các Hội nghị
này nọ thì đều do một số nồng cốt thực hiện, cuối cùng bao giờ cũng
được Huỳnh Tấn Phát xem và sửa chữa lại.
Thiệt là quá đã và quá đáng! Nhà nghiên cứu Lữ Phương “dấn
thân” vào đến tận chiến khu để làm cách mạng mà sinh hoạt cứ y
như trong nhà giữ trẻ vậy. Ông chắc là đẻ bọc điều nên lúc
nào cũng được cuộc đời chiều đãi.
Năm 2018, năm Nguyễn Trung Tôn bị tuyên án lần thứ hai (“12 năm tù
và ba năm quản chế ”) thì Lữ Phương được trao giải Giải Văn Hóa Phan Châu Trinh, vì đã có “những công trình nghiên cứu sâu sắc về chủ nghĩa Marx.” Trong diễn từ nhận giải, ông phát biểu:
Như mọi người đều biết, học thuyết Marx đã được du nhập vào Việt Nam
không phải trong một hoàn cảnh bình thường của một xã hội bình thường ở
đó người ta có thể coi việc nghiên cứu Marx như một thao tác nghề nghiệp
mang tính học thuật hàn lâm thuần tuý. Đất nước bấy giờ chìm đắm trong
bóng tối của sự bất bình thường: nhà nước dân tộc bị tước mất chủ quyền,
nhân dân sống trong nô lệ, trí thức thì bơ vơ, tuyệt vọng. Chủ nghĩa
Marx đã đến với chúng ta (tnt tô đậm) trong tình thế đó, và mặc dù
không có đủ điều kiện để tìm hiểu đến nới đến chốn, chúng ta đã tiếp
nhận học thuyết ấy như biểu tượng của sự giải phóng chói loà ánh sáng:
không phải chỉ mang đến cho dân tộc biện pháp xây dựng hiệu nghiệm cuộc
sống mới mà còn giúp người trí thức lấp đầy được cái khát vọng ngàn đời
của mình về sự tồn tại của một trần gian ở đó con người có thể hoà giải
vĩnh viễn với nhau. Trong khung cảnh tinh thần đó, việc tìm đến Marx đối
với chúng ta đã mang nội dung một cuộc dấn thân toàn diện và triệt để,
bấy giờ thường được xưng tụng là “hiện thực và khoa học”, nhưng thực
chất lại rất giống với một hình thức tín ngưỡng nào đó, đặt niềm tin
tuyệt đối vào một đấng bậc phi phàm có thể dẫn đường một cách kỳ diệu
cho các kế hoạch mà chúng ta vạch ra để cải tạo thế giới, làm lại con
người.
Trong số “chúng ta” đã từng “tiếp nhận học thuyết chủ nghĩa Marx …
như biểu tượng của sự giải phóng chói loà ánh sáng” theo diễn từ
thượng dẫn (dường như) không có ông bà và cha mẹ của Nguyễn
Trung Tôn – qua lời tự sự của chính tù nhân lương tâm này, trước khi bị giam giữ lần thứ hai:
“Tôi là một trong số hàng trăm triệu nạn nhân của chủ nghĩa Cộng Sản tại
Việt Nam. Câu chuyện mà tôi sắp kể ra đây chưa thể nào vạch trần hết
tội ác của chủ nghĩa rừng rú này; nhưng cũng sẽ góp một phần nhỏ để
những ai còn ngây thơ mù quáng đi theo nó sớm nhận ra và từ bỏ còn đường
tăm tối được thêu dệt nên bằng những dối trá và tội ác.
Tôi sinh năm 1971, năm nay bước vào tuổi 44. Tuy chỉ mới độ tuổi này
nhưng tôi đã từng nghe bố tôi kể lại và cũng đã phải trực tiếp chứng
kiến cảnh gia đình tôi suốt 4 đời là nạn nhân của chủ nghĩa Cộng Sản.”
Cùng với hằng chục triệu gia đình “suốt 4 đời là nạn nhân của chủ
nghĩa Cộng Sản” tại Việt Nam, ảo tưởng và sự nhầm lẫn về chủ
nghĩa Marx – nói nào ngay – cũng đã “vô tình” đem đến hào quang
(cũng như danh lợi) cho không ít kẻ ở xứ sở này. Xin đan cử
thêm một trường hợp nữa, rõ nét hơn nhiều: Nguyễn Thị Bình.
Chủ tịch Mao Trạch Đông của TQ đón Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình và Đại
sứ Nguyễn Văn Quang tại Trung Nam Hải, Bắc Kinh. Ảnh & chú thích:
BBC.
Bà nguyên là Phó Chủ Tịch nước CHXHCN Việt Nam, từ 1992 đến 2002, và hiện là Chủ tịch Hội Đồng Quản Lý Qũi Văn Hóa Phan Chu Trinh. Danh lợi bà có đủ, kể cả huân chương (Huy Hiệu 70 Năm Tuổi Đảng) cùng những lời khen thưởng không thiếu trên mọi phương tiện truyền thông.
Mới đây – vào ngày 12 tháng 04 năm 2019 – khi góp ý về vụ nhà
nước VN thất kiện trọng vụ án Trịnh Vĩnh Bình, nhà báo Nguyễn Công Khế
đã không quên tán dương công đức của “bà chị” như sau: “Tôi vừa
ra Hà Nội thăm chị Bình, chân chị yếu nhưng trí tuệ chị thật minh mẫn.
Tấm lòng của chị với đất nước này chưa bao giờ nguôi phai. Chị lo cho
đất nước này như chăm lo cho một gia đình yêu quí nhất của mình.”
Thiệt là qúi hoá!
Chỉ có điều hơi đáng tiếc là dường như trong cái “đất nước
này” của Nguyễn Thị Bình không bao gồm hằng chục triệu gia
đình (“bốn đời là nạn nhân của chủ nghĩa Cộng Sản”) như trường hợp
của tù nhân lương tâm Nguyễn Trung Tôn, và cũng chả có phần nào
biển đảo cùng lãnh thổ đã bị xâm chiến hay đang bị đe doạ
cả. Thế nên dù dù trí tuệ “còn thật minh mẫn,” bà chị vẫn
nhất định không hé môi nói lấy một lời – nửa lời cũng nỏ.
Riêng có cậu em Nguyễn Công Khế là vẫn cứ mồm năm mép mười –
dù chả ai nhờ. Tuy chỉ thuộc thế hệ ăn theo cái “ảo tưởng và
sự nhầm lẫn về chủ nghĩa Marx” nhưng cậu này cũng hoạn lộ hanh
thông từ A tới Z. Nay đã may mắn hạ cánh an toàn song vẫn chưa
chịu sống an thân, vẫn còn thích đóng vai kẻ sỹ – phù thế
giáo một vài câu thanh nghị – và cố tình quên rằng chính mình
đã góp phần (tích cực) trong việc tạo ra cái xã hội nhiễu
nhương trước mắt.
0 comments :
Post a Comment