Trần Phong Vũ
* Minamata, một thị trấn ven biển của đất
nước Phù Tang. Chính tại nơi này, nhà máy hóa chất Chisso đã cho xả
thải chất methyl thủy ngân (methylmecury hay thủy ngân methyla) xuống lòng biển suốt từ năm
1932 đến 1968. Hóa
chất cực độc này đã tích
tụ sinh học lại trong cá, sò, nghêu ở vịnh Minamata và biển
Shiranui khiến nạn nhân sau
khi ăn
bị ngộ độc thủy ngân dẫn tới tử vong. Tiến trình
trước khi chết, ban đầu nạn nhân bị rối loạn về thị giác, thính giác, tiếp theo bị điên loạn và tê liệt tứ chi. Những
loài gia súc như chó, mèo, heo, cùng với người, khi ăn hải sản nhiễm độc chất
thủy ngân bị bệnh và tử vong liên tục trong suốt 36 năm. Trong nhiều trường hợp, giới chức Y Tế
Nhật Bản còn phát hiện những di lụy lâu dài của hiện tượng hủy hoại môi trường
ở vịnh Minamata, qua trường hợp các em bé bị bệnh ngay từ khi còn là bào thai
trong lòng mẹ.
Cho đến
tháng 3 năm 2001, 2,265 nạn nhân chính thức được xác nhận đã bị nhiễm bệnh
Minamata[1] (trong đó
1,784 người đã chết) và khoảng hơn 10,000 người nhận được bồi thường kinh tế từ
Chisso. Đến năm 2004, Tập đoàn Chisso đã chi trả 86 triệu đô la Mỹ tiền bồi
thường
phần lớn theo kiểu thương lượng bên ngoài tòa án và cũng chỉ có tính cách tượng
trưng do thái độ thiếu lương thiện. Cũng trong năm đó, công ty này bị yêu
cầu phải thanh
tẩy vùng biển bị ô nhiễm về độc chất thủy ngân. Để trả lại nguyên trạng trong lành cho
vùng biển này, Tokyo và tổ hợp Chisso đã phải chi ra ngót 50 tỷ Yên, mất 14 năm
để nạo vét độc chất thấm sâu dười lòng biển, 23 năm đánh bắt tất cả những tôm
cá bị nghi mang mầm bệnh đem đi tiêu hủy. Ngày 29 tháng 3 năm 2010, một khoản
thanh toán lớn
cũng đã được tiến hành để bồi thường cho những nạn nhân khác.
(Tổng
hợp, tóm gọn thông tin trên NET)
* Vũng Áng, một vùng chài lưới hiền hòa,
nơi cư ngụ và sinh sống an vui no ấm của đông đảo ngư dân thuộc huyện Kỳ Anh,
tỉnh Hà Tĩnh miền Trung Việt Nam từ bao đời nay. Cho đến khi xuất hiện tổ hợp
Formosa được Hànội thuận cho thuê đài hạn hàng trăm mẫu đất để thiết lập công
ty sản xuất gang thép Formosa thì đất bằng nổi sóng! Ngày 06-4-2016, bỗng dưng
hàng ngàn tấn tôm cá đủ loại chết phơi trắng dọc theo 250 cây số bãi biển bốn
tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam, Thừa Thiên, từ Vũng Áng tới Lăng Cô, Đà
Nẵng và có khả năng lan tới các tỉnh miền Nam thuộc đồng bằng sông Cửu Long.
Các tổ hợp nuôi cá trong lồng ở ven biển của ngư dân địa phương cũng trở thành
nạn nhân độc chất. Ngay cả đến những rặng san hô cũng bị úa vàng, suy sụp cùng
với các loại cá lớn nằm chết dưới lòng biển sâu. Ít ngày sau, ngư dân địa
phương phát hiện miệng ống xả thải hóa chất cực độc trực tiếp dẫn từ nhà máy Formosa
xuống biển.
Sau cái chết đầy nghi vấn của người thợ
lặn Lê Văn Ngày, nhiều trường hợp mang bệnh cấp kỳ dẫn tới tử vong đã được các
trang mạng nói tới với danh tính nạn nhân, trong khi giới hữu quyền vẫn im lặng
và che giấu thông tin cách khó hiểu. Trả lời cuộc phỏng vấn về hệ quả vụ hủy
hoại môi trường biển ở Vũng Áng đe dọa sinh mạng và sức khỏe con người, trong
cuộc phỏng vấn của VietCatholic hôm Thứ Ba 13-9-2016, từ quốc nội Đức Cha
Nguyễn Thái Hợp, Giám Mục Giáo phận Vinh cho hay, chính ngài đã gặp một linh
mục tại Quảng Bình khi đi xét nghiệm phát hiện trong máu có độ chì và thủy ngân
cao hơn nhiều so với mức cho phép. Ngoài ra, vẫn theo GM Hợp thì một số người đi Hàn Quốc làm công nhân
theo chương trình hỗ trợ của chính phủ nhưng không đi được vì xét nghiệm thấy
lượng chì và thủy ngân trong máu quá cao.
Trong hai ngày 26 & 27-9 vừa qua, LM
Đặng Hữu Nam cha sở giáo xứ Phú Yên đã thành công trong bước đầu hướng dẫn 600
nạn nhân đi khiếu kiện ở Tòa án Nhân dân Thị xã Kỳ Anh. Dịp này, 506 nguyên đơn
đã được giới hữu quyền tư pháp lập biên bản tiếp nhận.
Trên đây, chúng tôi tóm gọn hai sự kiện liên quan tới hành
vi trực tiếp gây ra hệ quả hủy hoại môi trường sinh thái dẫn tới biển chết, tôm
cá chết, người chết. Một xảy ra ở cảng Minamata, Nhật Bản giữa thế kỷ trước và
một vừa bộc phát tháng tư năm nay (2016) ở Vũng Áng, miền Trung Việt Nam.
Trong thời gian qua, đã có nhiều tác giả đề cập về tại họa
Minamata, Nhật Bản. Nhưng phần lớn chỉ chú trọng tới thời gian lâu dài và kinh
phí lớn lao được vận dụng để làm sạch môi trường biển. Hầu hết không đi sâu vào
chi tiết liên quan tới diễn tiến sự việc. Từ mưu toan gian dối nhằm chạy tội và
giảm thiểu số tiền bồi thường của công ty hóa chất Chisso, tới thái độ tắc
trách của chính quyền Nhật đương thời, nhất là sự chia rẽ ngay trong đám đông
thành phần nạn nhân trực tiếp lúc bấy giờ, chỉ vì lý do ích kỷ.
Chi tiết về những sự kiện này hiện đang ứng vào vụ Formosa
Vũng Áng với một mức độ trầm trọng khó lường hơn nhiều so với trường hợp các
nạn nhân ở cảng Minamata, Nhật Bản thế kỷ trước. Phần vì đất nước ta hiện đang
nằm dưới chế độ độc tài chuyên chế cộng sản. Trong khi chế độ này ngày càng lệ
thuộc Bắc Kinh vốn bị coi là một trong những tác nhân chủ yếu dẫn tới hiện
tượng môi trưởng biển bị tàn phá. Vì thế vấn đề bạch hóa tai họa khủng khiếp
ảnh hưởng trực tiếp tới an sinh, mạng sống lúc này của hàng triệu ngư dân Việt
Nam cũng như những hệ lụy kéo dài qua nhiều thế hệ tương lai hiện đang gặp
không ít khó khăn tuồng như bất khả khắc phục.
Trước hết vì tệ trạng tham nhũng dẫn tới những toa rập giữa
hệ thống đảng & nhà nước Việt Nam với tập đoàn Formosa. Do đó, công việc
trước tiên cần làm như tiến hành việc thử nghiệm đến tận căn mức độ ô nhiễm
trong nước biển, công khai hóa những trường hợp ngư dân bị bệnh và tử vong sau
khi ăn cá, nhưng vẫn đang gặp trở ngại vì thái độ thiếu minh bạch của nhà cầm
quyền. Ngoài ra vấn đề cấp bách là áp dụng kỹ thuật tân tiến để làm sạch môi
trường biển Vũng Áng chưa hề được ai nói tới như tiết lộ của Đức Cha Nguyễn
Thái Hợp, GM Giáo phận Vinh khi trả lời cuộc phỏng vấn của LM Trần Công Nghị,
Giám Đốc VietCatholic News hôm 13-9-2016.
Chuyện đảng và nhà nước CSVN đơn phương nhận 11 tỷ đồng
tương đương 500 triệu $US của Formosa được xử dụng ra sao trong việc trợ giúp
hàng trăm ngàn nạn nhân và ngăn ngừa tác hại ô nhiễm môi trường biển, cho đến
nay ít ai được biết, cũng là một vấn nạn không thể không quan tâm. Vẫn theo
phản ánh của vị lãnh đạo tinh thần Giáo phận Vinh trong cuộc phỏng vấn trên
đây, hiện dư luận trong nước còn đặt nghi vấn là nhà cầm quyền Hà nội nhận 500
triệu $US, 1 tỷ, 2 tỷ, hay 20 tỷ $US… ai biết?
Chính vì những lý do ấy, dựa vào tài liệu tổng hợp trên
mạng xuất xứ nhiều nguồn, kể cả Bách khoa toàn thư Wikpedia, người viết muốn
nhìn sâu vào trường hợp Minamata hơn nửa thế kỷ trước. Từ đấy, đối chiếu với
thảm nạn môi trường biển Việt Nam tại bốn tỉnh miền Trung hiện nay, hy vọng tìm
ra bài học quý cho các nạn nhân Vũng Áng.
I.- Câu chuyện ở Nhật từ thế kỷ trước
Năm 1956, lần
đầu tiên, bệnh Minamata được phát
hiện ở thành phố Minamata, Kumamoto, Nhật Bản. Nhưng
phải chờ tới năm 1968, tức 12 năm sau, nhà cầm quyền Tokyo mới
chính thức tuyên bố bệnh
Minamata là do nhà máy hóa học
của tập đoàn Chisso làm ô nhiễm môi trường biển gây nên, sau khi căn bệnh nguy hiểm này tái phát ở tỉnh Niigata vào
năm 1965. Theo suy luận chung, sự chậm trễ này do hai nguyên nhân. Thứ
nhất vì trở ngại đương nhiên về tình trạng kỹ thuật chưa đủ cao vào thời ấy.
Thứ hai cũng có thể vì thái độ lươn lẹo thiếu lương thiện phát sinh từ tinh
thần con buôn, chỉ biết phục vụ lợi nhuận của tập đoàn Chisso, tác nhân gây ta
thảm họa môi trường.
Theo tài liệu của Wikpedia thì tập đoàn Chisso cho mở xí
nghiệp hoá chất đầu tiên ở Minamata vào năm 1908. Ban đầu họ chỉ chế tạo phân
bón. Sau đó nhà máy đã đi theo xu hướng mở rộng công nghiệp hoá chất toàn quốc.
Họ tiến hành phân nhánh để chế tạo nhiều hoá chất trong đó có acetylen,
acetaldehyde, axit acetic, vinyl chloride, và octanol. Các chất phế thải từ quá
trình sản xuất những hóa phẩm kể trên được xả thẳng xuống vịnh Minamata. Sự
kiện này ảnh hưởng trầm trọng tới môi trường biển khiến cho nghề đánh bắt cá của
ngư dân Nhật và các nghề phụ như công nghệ làm muối lần hồi bị tổn hại nặng. Sản
lượng tôm cá và muối suy giảm nghiêm trọng đưa tới những cuộc biều tình phản
đối ngày càng gia tăng của ngư dân địa phương.
Ban đầu, Chisso tìm cách tránh né. Nhưng trước những đòi
hỏi quyết liệt của các nạn nhân, Chisso đã phải nhân nhượng bằng cách chấp nhận
bồi thường cho ngành công nghiệp cá trong hai đợt vào những năm 1926 và 1943.
Điều cần nhấn mạnh, việc bồi thường này của Chisso cho đến thời gian ấy vẫn
chưa chính danh, mà chỉ được thực hiện qua những cuộc thương lượng bên ngoài
tòa án[2].
Một viên chức làm việc trong hợp tác xã khai thác thủy sản
ở vịnh Minamata trong một lần nhận tiền bồi thường đã ngậm ngùi thốt lên câu
nói:
"In
order to end the anxiety of the citizens, we swallow our tears and accept” – Tạm dịch: “Nhằm làm dịu tâm trạng bực bôi/âu lo của quần chúng, chúng tôi đành
nuốt lệ để nhận số tiền bồi thường”
Người đương thời mệnh danh những ngân khoản bồi thương
nhỏ nhoi bất đắc dĩ ban đầu của tập đoàn Chisso trả cho các nạn nhân ngư phủ
Nhật Bản ở vịnh Minamata khi ấy là “Sympathy
money – Tiền thông cảm”. Đây là một hình thức bồi thường rẻ mạt qua thương
lượng, theo cung cách đảng và nhà nước công sản Việt Nam đã ngửa tay nhận của
tập đoàn Formosa 11 tỷ đồng, tương đương nửa triệu $US không cần hỏi ý kiến
nhân dân, đặc biệt các nạn nhân trực tiếp của thảm nạn hủy hoại môi trường
biển.
*
Bước đầu của những tai ương
Vào năm 1932,
nhà máy Chisso Minamata bắt đầu sản xuất acetaldehyde, với sản lượng 210 tấn
hàng năm. Ngót 20 năm sau, chính xác là năm 1951, tổng sản lượng đã lên đến
6,000 tấn một năm và đạt kỉ lục 45,245 tấn vào năm 1960. Chi tiết cần quan tâm
là trong số hóa chất do Chisso dùng
để chế tạo ra acetaldehyde có sử dụng thủy ngân sulfat làm chất xúc tác. Một phản ứng phụ của sự
kiện này đã tạo ra một sản lượng
hợp chất thuỷ ngân vô cơ, tên là methyl thuỷ ngân (methylmercury). Hợp chất kịch độc này đã được xả xuống vịnh
Minamata từ khi nhà máy thay thế chất cộng xúc tác trong suốt 17 năm, từ
năm 1951 cho đến khi bị ngưng hoạt động vào năm 1968.
Ngày 21 tháng
4 năm 1956, một bé gái 5 tuổi đã được xét nghiệm tại bệnh viên xí nghiệp của
tập đoàn Chisso ở Minamata, Kumamoto, thị trấn nẳm ở bờ tây hòn đảo phía nam
Kyushu. Các bác sĩ đã bối rối trước những triệu chứng của cô bé. Em gặp khó
khăn khi di chuyển, tiếng nói trở nên ngọng nghịu lúc phát âm. Cùng lúc toàn
thân em bị co giật. Hai ngày sau, chị cô bé cũng bắt đầu có những biểu hiện
tương tự và cũng phải nhập viện. Thân mẫu hai bé gái này đã thông báo cho các
bác sĩ về trường hợp các con bà. Thời gian ấy, con gái người hàng xóm của gia
đình này cũng có những dấu hiệu tương tự. Sau khi xét nghiệm từng gia đình
trong xóm, tám bệnh nhân khác được phát hiện và phải vào nhà thương. Ngày 01
tháng 5, 1956, giám đốc bệnh viện báo cáo với văn phòng sức khoẻ cộng đồng địa
phương là các y sĩ tại đây đã tìm ra một bệnh dịch liên quan tới hệ thần kinh trung ương trước nay chưa hề biết. Sự kiện mới mẻ này
là bước khởi đầu cho sự phát hiện chính thức căn bệnh Minamata.

Mẹ
tắm cho con gái bệnh Minamata (Ảnh: William Eu. Smith)
Trong quá
trình điều tra, nghiên cứu, giới hữu quyền tình cờ phát giác một sự kiện bất bình thường nơi những gia súc như chó,
mèo, heo trong nhà các bệnh nhân. Bỗng dưng chúng có triệu chứng co giật, hoảng
loạn một thời gian trước khi chết. Cùng lúc ấy người ta chứng kiến những con
quạ đang bay trên không trung bỗng dưng bị chết rơi xuống đất, hàng loạt tôm cá
chết nổi trên mặt biển, các loại rong rêu tự nhiên héo rũ rồi biến mất. Tình
trạng khác thường này khiến giới hữu quyền cấp cao phải quan tâm. Các nhà khoa
học danh tiếng từ Trường đại học Kumamoto được
mời tới quan sát để khởi đầu một công trình nghiên cứu rộng rãi.
Họ thường
xuyên ghé thăm Minamata, đưa bệnh nhân vào bênh viện của trường để tiến hành
xét nghiệm chi tiết. Nhờ thế, y giới thấy rõ hơn các
triệu chứng biểu hiện nơi người bệnh. Bệnh chứng phát triển không có báo hiệu
gì trước, người bệnh chỉ than phiền về sự mất cảm giác, tê liệt tay chân. Sau
đó hai tay bị run rẩy, co giật và bắt đầu biến dạng không cầm ly chén để tự ăn
uống cũng như không thể cài khuy áo được. Những bước đi bắt đầu nghiêng ngả
không vững. Nhiều bệnh nhân bị suy giảm trầm trọng về thị giác và thính giác. Những
triệu chứng này ngày càng trầm trọng. Trước khi chết, người bệnh trải qua một
thời kỳ bị co giật rồi hôn mê. Cho đến tháng 10 năm 1956, 40 bệnh nhân đã được
phát hiện, 14 người trong số này bị tử vong.
* Căn
nguyên của bệnh do độc tố trong nước biển và tôm cá
Sau một thời
gian dài theo dõi, các y sĩ và khoa học gia phát hiện ra những nạn nhân, thường
là thành viên trong một gia đình, tập trung ở những thôn xóm đánh bắt cá dọc bờ
biển thuộc vịnh Minamata. Thực phẩm chính yếu các nạn nhân thường dùng hàng
ngày là các loại cá biển. Những con mèo trong khu vực vì ăn thực phẩm thừa của
gia đình và đã chết vì những triệu chứng tương tự như ở người khi tìm thấy sau
này.
Ngày 04-11-1956,
nhóm nghiên cứu đã đưa ra báo cáo đầu tiên:
“Bệnh Minamata được xác định là bệnh ngộ độc kim loại nặng, chủ yếu
được đưa vào cơ thể người qua tôm cá
đánh bắt trong vùng biển kế cận vịnh Minamata”.

Kazumitsu Hannaga, một nạn nhân cá - 1991.
Ngay sau khi kết quả điều tra xác định kim loại nặng là chất
gây ra căn bệnh, nguồn nước thải của nhà
máy Chiso được chỉ danh là nguồn gốc gây ra những vụ chết chóc từ cá, rong
biển, chim trời, tới gia súc và con người. Sự kiện hiển nhiên đến nỗi
chính tập đoàn Chisso cũng không thể chối bỏ sự thật và phải gián tiếp nhìn
nhận chất thải của nhà máy chứa quá nhiều kim loại nặng bao gồm chì, thủy ngân, mangan, asen, tali và đồng… với
nồng độ cao đến mức đưa tới thảm nạn cho biển, các hải sản, người.
Tuy vậy việc
xác minh cụ thể loại hóa chất nào gây ra chuyện chết chóc ban đầu không dễ.
Phải chờ tới những công trình nghiên cứu tiếp trong hai năm 1957/1958, nhà thần
kinh học người Anh Douglas McAlpine mới nêu
lên được giả thuyết là các triệu chứng Minamata tương tự với các triệu chứng của nhiễm độc thủy ngân hữu cơ, để từ đấy các khoa học gia tập trung hướng
nghiên cứu vào thủy ngân.
Cho tới tháng 02
năm 1959, người ta tìm ra một lượng lớn thủy ngân trong cá, sò bị bệnh và chết
trong vùng biển quanh vịnh Minamata. Nồng
độ cao nhất tập trung xung quanh ống thoát nước thải của nhà máy Chisso đặt
tại vịnh Hyakken và giảm dần theo giòng thủy lưu dẫn ra biển khơi. Điều này
chứng tỏ cụ thể hơn chính chất thải do Chisso xả xuống biển là căn nguyên chính
tạo ra ô nhiễm đưa tới căn bệnh gây tử vong cho ngư dân và thân nhân họ.
Ngày 12-11-1959, phân ban ngộ độc thực phẩm Minamata của
Bộ y tế và phúc lợi Nhật Bản đã cho công bố kết quả sau đây:
“Bệnh Minamata, một bệnh ngộ độc là căn
nguyên chính tác hại tới hệ thần kinh trung ương của các nạn nhân vì đã tiêu
thụ một lượng lớn cá và nhuyễn thể sống ở vịnh Minamata và khu vực lân cận. Tác
nhân gây hại chính được xác định là một hợp chất thuỷ ngân hữu cơ nào đó.”
* Những vùng vẫy né tránh của tập đoàn Chisso
Trong suốt quá
trình điều tra của các nhà nghiên cứu trường đại học Kumamoto, hợp chất gây ra căn bệnh đã được xác định
là kim loại nặng và nhà máy Chisso
đã bị quy kết là nguồn gốc gây ra ô nhiễm. Trước viễn cảnh bị kiện cáo đòi
bồi thương của các nạn nhân, Chisso bắt đầu tìm mọi cách mong làm chệch hướng
chỉ trích của công luận. Chisso ý thức rất rõ về tác hại phá hủy môi trường do
nước thải của nhà máy gây ra và cũng cảm nhận tập đoàn đã trở thành mục tiêu
cho sự hoài nghi của các nạn nhân qua kết quả cuộc điều tra căn bệnh Minamata
do đại học Kumamoto thực hiện mấy năm qua. Đầu tiên, Chisso tỏ ý muốn hợp tác
với các nhà nghiên cứa thuộc đại học Kumamoto với mưu toan ảnh hưởng tới diễn
tiến nghiên cứu, nhưng bị thất bại vì không được chấp nhận. Vì thế tháng 7 năm 1959, tập đoàn này tự đứng ra thành lập một phòng thí nghiệm nằm trong bộ phận
nghiên cứu riêng do Giám đốc bệnh viện của nhà máy Chisso điều hành với hy vọng
đưa ra được những phán quyết khác về căn nguyên bệnh Minamata.
Sau hai tháng cặm cụi hoài công, cuộc nghiên cứu riêng
này bị thất bại. Tập đoàn Chisso giấu kín không cho công bố kết quả. Tuy
vậy, Chisso vẫn tiếp tục theo đuổi nỗ lực bác khước phán quyết về ngộ độc thủy
ngân hữu cơ của các nhà nghiên cứu trường đại học Kumamoto để mong trút bỏ
trách nhiệm. Lần này, tập đoàn Chisso hợp tác với các thế lực trong công quyền
có chung lợi ích như Bộ Ngoại Thương/Công nghiệp và Hiệp Hội Công Nghiệp Hóa Chất trong chính
phủ Nhật Bản khi ấy. Đôi bên đã chi thêm tiền cho nghiên cứu các nguyên
nhân có thể gây ra căn bệnh khác ngoài chất thải của chính công ty, với hy vọng
câu thời gian để tìm cách chạy tội.
* Những
khúc mắc trong chuyện bồi thường
Sau cơn bùng
phát của căn bệnh Minamata, tình trạng đánh bắt cá của ngư dân trong vùng ngày
càng trở nên khó khăn. Sản lượng tôm cá bắt được
giảm tới 91% từ năm 1953 đến 1957. Chính quyền tỉnh Kumamoto buộc phải ban hành
lệnh cấm cục bộ việc bán cá do ngư dân thu hoạch được trong vùng vịnh Minamata
bị ô nhiễm. Với lệnh cấm này vào thời điểm đó, đương nhiên sẽ đưa tới hệ quả ép
buộc một cách hợp pháp nhà máy Chisso phải bồi thường thiệt hại cho ngư
dân. Nắm được cơ hội này, hợp tác xã đánh bắt cá vận động ngư phủ và các
nạn nhân xuống đường phản kháng chống lại Chisso. Đoàn người đông đảo đã giận
dữ kéo đến công ty nhiều ngày để đòi bồi thường thiệt hại cho họ. Lý do vì
không thể ra khơi đánh bắt hải sản nuôi gia đình và cũng vì những căn bệnh lạ
bắt đẩu bùng phát.
Trước phản ứng
quyết liệt của đám đông, Chisso đã vận động thị trưởng Minamata là Todomu
Nakamura làm trung gian đứng ra thành lập một hội đồng điều giải. Điều bất hạnh
cho các nạn nhân là trong hội đồng này có nhiều người đứng về phía tổ hợp
Chisso nên việc bồi thường vẫn chỉ mang tính tượng trưng không bù đắp được
những thiệt thòi về nhân mạng và an sinh của các ngư dân cùng gia đình họ. Hợp
tác xã miễn cưỡng phải đồng ý bản đề nghị của hội đồng hoà giải để nhận một bồi
khoản không tương xứng.
Như trong đoạn
trước người viết đã đề cập, khi miễn cưỡng phải nhận ngân khoản bồi thường nhỏ
nhoi của tập đoàn Chisso là 20 triệu yên (tương đương 55,600 $US) và 15 triệu
yên (41,700 đô la Mỹ) nói là để xúc tiến việc trợ giúp ngư dân phục hồi nghề cá, người đại diện hợp tác xã ngư nghiệp
đã ngậm ngùi thốt lên những lời than vãn.
Mâu thuẫn trong nội bộ các nạn nhân
Một trong những căn nguyên khác khiến
cho việc đòi hỏi bồi thường của các nạn nhân vụ ô nhiễm môi trường biển quanh
vùng vịnh Minamata không đạt được kết quả như ý, luôn bị nép vế trong các dịp
thương lượng với tập đoàn Chisso, chỉ vỉ thái độ hẹp hòi, ích kỷ, thiếu đoàn
kết của một số trong các nạn nhân.
Trong những năm cực thịnh của nhà máy
Chisso, phải công bằng nói là tập đoàn này đã giúp cho nền kinh tế địa phương
phát triển khá mạnh[3]. Đời sống những gia đình ngư dân nơi
đây, nói chung đã được cải thiện. Vì thế, khi nạn cá chết bùng nổ, vì không
phải tất cả mọi gia đình ngư dân đều là nạn nhân trực tiếp, ít nhất là trong
nhà có người nhiễm bệnh, do đó điều này đã trở thành nguyên nhân gây ra những
rạn nứt về phía quần chúng trong khi cần phải đoàn kết để tranh đấu cho quyền
lợi chung.
Với tâm trạng nuối tiếc thời kỳ vàng son
bị sụp đổ vì căn bệnh Minamata bất ngờ bộc phát, thành phần ngư dân chưa phải
là nạn nhân trực tiếp, hoặc thuộc thành phần khá giả khi ấy bỗng dưng như thấy
bị xúc phạm trước phản ứng chống đối quyết liệt của kẻ khác. Điều này góp phần
làm cho phong trào đấu tranh đòi Chisso bồi thường vốn đã yếu thế vì mưu toan
chạy tội của Chisso lại càng yếu thêm do sự chia rẽ trong tập thể.
Nỗ
lực làm sạch môi trường biển
Chuyện đôi co
về vần đề bồi thường tiếp tục kéo dài trong nhiều năm sau đó. Dù ngoan cố,
nhưng tập đoàn Chisso cũng đã phải bồi thường cách này hay cách khác cho các
nạn nhân bệnh Minamata trong nhiều đợt.
Riêng về vấn
đề làm sạch môi trường biển, nhà cầm quyền Nhật Bản đã tỏ ra mẫn cán với tinh
thần trách nhiệm rất cao. Với phần bồi thường của tập đoàn Chisso, giới hữu
quyền Nhật đã chi ra một ngân khoản là 48 tỷ 500 triệu Yên thời ấy cho việc nạo
vét lớp bùn nằm sâu dưới đáy biển tồn đọng những độc chất do nhà máy Chisso
thải ra trong một chiều dài 50 cây số dọc bờ biển trong vịnh Minamata.
Công việc nạo
vét này kéo dài trong suốt 14 năm ròng rã. Riêng việc huy động ngư phủ đánh bắt
tất cả những sinh vật trong lòng biển bị nghi nhiễm chì và thủy ngân, bao gồm
đủ loại tôm cá, sò ốc, đem đi tiêu hủy để tuyệt căn những độc chất còn lại kéo
dài ròng rã tới 23 năm.
Di
lụy lâu dài của bệnh Minamata với thai nhi
Qua những tài
liệu tìm được trên mạng, năm 1961, các chuyên gia y
tế, trong số đó có Dr Masazumi Harada[4] đã tiến hành xét nghiệm lại các trẻ được chẩn đoán là bại
não. Các triệu chứng của trẻ em lặp lại y hệt các triệu chứng của người lớn mắc
bệnh Minamata trong khi mẹ các em không hề có biểu hiện mắc bệnh. Thực tế các
em bé này đã được sinh ra sau đợt bùng phát bệnh minamata đầu tiên và chưa bao
giờ ăn cá bị nhiễm độc đã khiến mẹ các bé tin rằng con mình không thể là nạn
nhân. Thời gian đó, y học tin rằng nhau thai của người mẹ
có thể bảo vệ bào thai khỏi độc tố
trong máu. Sự tin tưởng này không sai đối với hầu hết các hoá chất khác, trừ
thủy ngân metyla. Những phát kiến sau này cho hay, nhau thai tự động tách
thuỷ ngân ra khỏi máu người mẹ và tập trung lại ở bào thai.
Sau vài năm nghiên cứu và khám nghiệm tử thi của 2 trẻ
em, các bác sĩ nhìn nhận những em bé này đã phải chịu đựng một dạng bẩm sinh
chưa được biết đến của bệnh Minamata. Một hội đồng y khoa đã họp lại vào ngày
29 tháng 11 năm 1962 và đồng loạt đưa ra phán quyết chung là 2 trẻ em đã chết
cũng như 16 em bé khác vẫn còn sống cần được xác nhận là bệnh nhân do di lụy từ
bệnh Minamata. Kết quả của phán quyết này giúp cho tất cả 18 em đều được nhận
khoản bồi thường từ Chisso theo pháp lý, căn cứ theo hiệp định ký kết năm 1959.
II.- Chuyện Formosa ở Vũng Áng hôm nay
Nhìn chung,
tất cả những diễn tiến của thảm họa hủy hoại môi trường biển, phản ứng của nạn
nhân, phản ứng của tập đoàn gây ra vụ biển chết, cá chết, người chết, những di
lụy nhiều thập niên sau… cũng như thái độ của giới cầm quyền Nhật Bản thế kỷ
trước quanh trường hợp vịnh Minamata, đối chiếu với trường hợp xảy ra ở Vũng
Áng, Việt Nam hiện nay, có rất nhiều nét tương đồng. Khác chăng là ở quy mô,
mức độ, không gian, thời gian, sự phát triển tin học, kỹ thuật, khoa học và dị
biệt về thể chế chính trị dẫn tới phản ứng và cung cách gỉải quyết thảm nạn
không giống nhau.
*
Khác biệt về quy mô thảm nạn cá chết
Ảnh hưởng vụ
công ty Chisso xả thải độc tố xuống vùng vịnh Minamata, Nhật Bản khởi đầu chỉ
giới hạn trong vòng 50 cây số. Trong khi ấy, hành vi tập đoàn Formosa gây ô
nhiễm môi trường biển ở Vũng Áng gấp 5 lần hơn. Sau phát hiện lẻ tẻ ngày
06-4-2016, trong vòng vài tuần lễ, hàng trăm, hàng ngàn tấn cá đủ loại nằm chết
phơi trắng trên một chiều dài tới 250 cây số dọc bãi biển bốn tỉnh miền Trung,
từ Kỳ Anh, Hà Tĩnh tới tận Lăng Cô, Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam.
Chỉ cần nhìn
vào sự khác biệt cụ thể về không gian này, người ta đã nhận ra quy mô và mức độ
thiệt hại trầm trọng tới an sinh của cả triệu người dân trong vùng phải gánh
chịu trong vụ đầu độc môi trường biển do Formosa gây ra. Trực tiếp là hàng trăm
ngàn ngư phủ cùng với gia đình họ cả đời sống bám vào nghề đánh bắt tôm cá, sò
hến… Ảnh hưởng của biến cố thảm khốc này cũng không loại bỏ đám dông dân cư
chuyên sống nhờ vào các công nghệ phụ thuộc nước biển như nghề nuôi trồng thủy
hải sản, nghề làm muối và rất nhiều công nghệ, dịch vụ liên hê.
*
Khác biệt về thời gian & thể chế chính trị
Biến cố xảy ra
ở vịnh Minamata, Nhật Bản từ đầu cho tới thập niên 60 thế kỷ trước, trong khi
thảm họa cá chết chụp xuống thân phận người dân bốn tỉnh miển Trung Việt Nam
bùng nổ giữa thập niên thứ hai ngàn năm thứ ba. Sự khác biệt về thời gian này
liên hệ tới hai sự kiện quan trọng. Thứ nhất là về kiến thức y khoa, khoa học
nói chung và thứ hai là những bước tiến về công nghệ thông tin.
Sự khác biệt
này rất quan trọng. Nhờ những phát kiến mới mẻ trong lãnh vực y khoa, việc chỉ
danh các loại độc tố trong nước biển, trong cá chết, nỗ lực trị bệnh và phòng
bệnh sẽ dễ dàng, chính xác hơn. Nhờ tiến bộ khoa học trong việc sử dụng công
nghệ cao để thanh lọc nước và lớp bùn sâu dưới đáy biển bị nhiễm độc cũng hữu
hiệu hơn. Cùng lúc sự bùng nổ về tin học ngày nay so với giữa thế kỷ trước là
một khoảng cách khó tưởng tượng.
Dĩ nhiên, các
bên liên hệ, nhất là những kẻ có quyền sinh sát có muốn tận dụng những ưu thế
của những tiến bộ này hay không lại là chuyện hoàn toàn khác.
Dù vậy, xét
trên nhiều mặt, nó không quan trọng bằng những khác biệt nền tảng về thể chế
chính trị giữa nước Nhật thế kỷ trước và Việt Nam dưới chế độ cộng sản 70 năm
qua. Vào thập niên 30/40 thế kỷ 20, nước Nhật tuy nằm dưới chế độ quân phiệt,
tương đối người dân nơi đây vẫn chưa đến nỗi bị cư xử quá nghiệt ngã và giới
cầm quyền ít nhiều còn tỏ ra tôn trọng quyền làm người. Vì thế, thái độ thiên
lệch trong cung cách ứng xử giữa những thế lực tiền bạc và đại khối dân đen của
chế độ đương thời tuy không tránh khỏi, nhưng tương đối vẫn còn dễ thở. Bằng
chứng là vào thời gian ấy, sau khi bị quy kết trách nhiệm đối với thảm họa môi
trường, tập đoàn Chisso cũng đã phải miễn cưỡng bồi thường cho các nạn nhân, dù
nhỏ giọt.
Sau đệ nhị thế
chiến, thảm bại trước quân đồng minh, từ đổ nát hoang tàn nước Nhật bắt đầu
thay đổi. Tuy vẫn còn tình trạng phân biệt đối xử, vẫn có hiện tượng Chisso
được ưu đãi cách này cách khác –bao gồm mục tiêu chính đáng cho ưu tiên phát
triển kinh tế- tình hình chung đã sáng sủa hơn nhiều. Dù vậy ít nhiều cũng ảnh
hưởng tới việc giải quyết vụ ô nhiễm môi trường biển ở vịnh Minamata.
Về điểm này,
dư luận trong và ngoại nước Nhật vào giữa thế kỷ 20 vô cùng cảm kích hành động
tích cực của nhà cầm quyền trong việc sử dụng một ngân khoản lớn để nạo vét
những độc chất tiềm ẩn sâu dưới lòng đại dương trong suốt 14 năm trường để trả
lại cho tôm cá, cho ngư dân của họ bầu khí trong lành của biển. Chưa hết, sau
khi làm sạch đáy biển sâu, trong 9 năm kế tiếp, để phòng ngừa hậu họa, Tokyo
còn tận lực đánh bắt tất cả tôm cá, hải sản còn bị nghi nhiễm độc chất thủy
ngân, gom lại đem đi tiêu hủy.
So sánh với Việt
Nam thì sao? Tính đến cuối tháng 9-2016, thảm nạn cá chết bùng nổ tại bốn tỉnh
miền Trung đã trải qua gần 6 tháng. Trước sự ngậm miệng của nhà cầm quyền,
trong mấy chục ngày đầu tập đoàn Formosa tiếp tục lẩn trốn trách nhiệm, chưa
kể, còn có những cử chỉ lời lẽ xúc phạm tới quốc thể và các nạn nhân. Nhưng khi
kết quả những cuộc nghiên cứu độc lập của giới trí thức, các nhà khoa học –kể
cả dư luận dân chúng, báo chí Đài Loan, quê hương của Formosa và tại các nước
tiên tiến khác- được công bố rộng rãi trên NET, giới hữu quyền không thể bao
che những sự thật ngày càng bộc lộ. Vì thế, hôm 30-6 tổ hợp gang thép này đã
phải nhận tội và công khai xin lỗi người dân Việt Nam, chịu bồi thường 11 tỷ
đồng tương đương nửa triệu $US cho thảm họa môi trường biển. Có điều ẩn sâu bên
trong những mưu toan đi đêm với tập đoàn Formosa và những trò gian trá bịp bợm
của đảng và nhà nước CSVN, chuyện xin lỗi và bồi thường này cũng lại chỉ là một
trong những màn kịch hạ đẳng rẻ tiền!
Hàng trăm nghi
vấn tiềm tàng trong những thắc mắc, những câu hỏi của đồng báo khắp nước đặt ra
cho CSVN. Bí ẩn nào khiến nhà cầm quyền Hànội không những tránh né không quan
tâm tới hoàn cảnh khó khăn của cả triệu đồng bào trong thảm nạn cá chết, biển
chết, người chết ở Vũng Áng mà còn có thái độ toa rập với thủ phạm đã xả thải
độc tố xuống biển, trong khi còn điều động công an, bộ đội bảo vệ Formosa, đàn
áp những đồng bào biểu tình, ngăn chặn báo giới, chính giới và các khoa học gia
nước ngoài có thiện chí muốn giúp Việt Nam làm sáng tỏ nội vụ?[5]
Đảng và nhà nước CSVN có quyền gì để nhận ngân khoản bồi thường bèo bọt của
Formosa? Trong ngót ba tháng kể từ ngày ngửa tay nhận bồi thường, số tiền này
do ai ký nhận và đã được sử dụng ra sao?[6]
Nó có tương xứng không khi so sánh với việc chính phủ Nhật Bản vào những năm đầu
hậu bán thế kỷ trước đã phải sử dụng một ngân khoản tương đương 11 tỷ đồng chỉ
để nạo vét đáy biển với một chiều dài so sánh chỉ bằng 1/5 dọc theo bãi biển
bốn tỉnh miền Trung? Việt Nam đã có động thái nào để trả lại nguồn nước trong
xanh, lành mạnh cho ngư dân sau vụ Formosa xả thải độc tố xuống lòng biển Vũng
Áng đưa tới thảm họa cá chết phơi trắng 250 cây số bờ biển?
Trả lời câu
hỏi liên quan tới vấn nạn này trong cuộc phỏng vấn của VietCatholic News, Đức
GM Nguyễn Thái Hợp nói:
“Đó là một quan ngại mà mọi người và bản thân tôi đang âu
lo. Vì cho đến hôm nay, sau 5 tháng rồi, chúng ta vẫn chưa sử dụng công nghệ
tiên tiến để trả lại môi trường biển sạch cho miền Trung. Chúng ta biết rằng
những trầm tích ở đáy biển chỉ có thể giải quyết bằng công nghệ cao. Trong cuộc
hội nghị vừa rồi ở Hà Tĩnh cũng có người băn khoăn đặt câu hỏi đó với quan chức
của bộ Môi trường cũng như một số chuyên viên đến từ Hà Nội. Họ hỏi tại sao
không dùng công nghệ để làm sạch biển và câu trả lời của những chuyên viên,
quan chức là vì quá đắt.
Họ nói, có thể sử dụng nhiều hình thức khác nhau nhưng rẻ
nhất là 3 $US trên một mét vuông và đắt nhất là lên đến mấy ngàn $US/mét. Phải
chăng chính vì vậy mà VN cho đến hôm nay không xử lý, không làm sạch môi trường
bằng công nghệ cao. Và hiện tại, đã bắt đầu phát hiện những căn bệnh.
Tôi đã gặp một linh mục tại Quảng Bình khi đi xét nghiệm
phát hiện trong máu có độ chì và thủy ngân cao hơn nhiều so với mức cho phép.
Một số người đi Hàn Quốc làm công nhân theo chương trình hỗ trợ của chính phủ
nhưng không đi được vì xét nghiệm thấy lượng chì trong máu quá cao. Bây giờ mới
bắt đầu, nhưng rồi trong tương lai sẽ như thế nào! Phải chăng tại vùng biển
miền Trung sẽ xảy ra như ở Nhật mà người ta gọi là căn bệnh Minamata. Với những
căn bệnh thê thảm cho người hiện tại và cho cả thế hệ trẻ tương lại. Đó là âu
lo lớn nhất! Và chúng ta biết rằng thảm họa bên Nhật chỉ xảy ra trong khoảng
50km, ở ta thảm họa đó trải rộng trên phạm vi 250km. Chính vì vậy hậu quả của
nó sẽ càng lớn”.
Khi lãnh đạo bộ Tài Nguyên
& Môi trường hân hoan nhắc tới số tiền Formosa hứa bồi thường, ông ta đã
gián tiếp cho thấy ý định “tha Tào” cho thủ phạm qua lời tuyên bố “đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy
lại”. Ý định này sau đó không lâu còn được Chủ tịch nước Trần Đại Quang úp
mở tiết lộ qua lời tuyên bố: “Sẽ trục
xuất vĩnh viễn Formosa, NẾU tái phạm”. Chữ “NẾU” là từ khóa mở ra cho mọi
người thấy rõ thâm ý của giới hữu quyền chế độ Hànội.
Nghĩ gì, làm gì
lúc này?
Sự kiện 506 hồ sơ của
giáo dân Phú Yên vừa được tòa án thị xã Kỳ Anh tiếp nhận (dù thật lòng hay còn
có cạm bẫy mai phục bên trong? Hãy chờ xem) vẫn được coi là thành công bước đầu
của cả trăm ngàn nạn nhân vụ hủy hoại môi trường do tổ hợp Formosa gây ra. Sự
thành công này được kết hợp bởi nhiều yếu tố.
Thứ nhất là truyền
thống bất khuất của người dân Nghệ Tĩnh. Nó đã được chứng minh từ những năm
1956/1957 thế kỷ trước. Thái độ hiên ngang, bất khuất, cương trực, tinh thần
tôn trọng tư do, sự thật và nhất là lòng lương thiện, đạo đức của những nạn
nhân đứng đơn kiện… là yếu tố nền tảng cho sự thảnh công này. Thứ hai, tấm
gương can đảm, không sợ bạo lực phát xuất từ niềm tin vàng đá vào Thiên Chúa và
lòng yêu mến con người của Linh mục Đặng Hữu Nam đã trở nên chất keo kết gắn
mọi người lại với nhau, giúp vượt qua những bước đầu vô cùng khó khăn do các
thế lực gian ác gây ra để đi tới kết quả, sau hai ngày lặn lội đưa 600 nạn nhân
tới Kỳ Anh khiếu kiện. 540 hồ sơ pháp lý được đệ nạp. 506 hồ sơ được tiếp nhận
với biên bản ký kết giữa Thẩm phán Trần Thanh Hương và người đại diện nguyên
đơn, Lm Đặng Hữu Nam.
Đây mới chỉ là một
bước ngắn cho cuộc hành trình vạn lý. Những khó khăn vừa qua dù đã gây nhiều
trở ngại cho đoàn người đi khiếu kiện, nhưng chắc chắn nó mới chỉ là dạo đầu
cho những thử thách cam go trong các chặng đường chông gai trước mặt.
Sau bước thử nghiệm
đầu tiên này, còn hàng chục, hàng trăm ngàn nạn nhân khác đang chờ sự giúp đỡ
của cha Nam và đông đạo đồng bào, đoàn thể, tổ chức thiện chí giúp họ cách thức
và phương tiện tài chánh để tiến hành thủ tục khiếu kiện. Kinh nghiệm cuộc đấu
tranh dai giẳng của những nạn nhân con cái Thần Mặt Trời thế kỷ trước phải là
bài học không những cho các nạn nhân thảm họa biển chết, cá chết, người chết
trong vụ môi trưởng biển Vũng Áng bị đầu độc do Formosa gây ra, mà còn cho cả
các cấp trong giới cầm quyền cộng sản Việt Nam phải học nằm lòng. (Sau nhiều
năm, cho dù vẫn lẩn khuất những mưu toan lươn lẹo của công ty hóa chất Chisso,
và dù vẫn có một thiếu số bất lương trong giới cầm quyền Nhật Ban, cuối cùng
công lý đã lần lần sáng tỏ).
Hai ngày sau cuộc thử
nghiệm thành công của các nạn nhân Vũng Áng, hôm 29-9 vừa qua, Hànội công bố
chi tiết kế hoạch bồi thường cho nạn nhân. Không ai nghi ngờ rắng chính ý chí
dứt khoát, quyết liệt tạo nên những hoa trái đầu mủa trong nỗ lực pháp lý hóa
vụ hủy hoại môi trường biển của Fomosa, là giọt nước cuối khiến đảng và nước
CSVN phải vội vã đưa ra kế sách bồi thường cụ thể. Những nạn nhân trực tiếp của
vụ án thế kỷ này có thỏa mãn với kế sách bất tương xứng với những gì các nạn
nhân hiện tại và tương lai phải gánh chịu không (?), đọc bản tường trình của
đài VOA chúng ta đã rõ.
Đây cũng là một vấn đề
khác khiến những người quan tâm tới thảm họa Vũng Áng không thể bỏ qua. Từ đấy,
một lúc nào đó, việc khiếu kiện sẽ không còn giới hạn vào đối tượng tổ hợp gang
thép Formosa. Trong trường hợp nhà cầm quyền Hànội chưa tỏ ra minh bạch trong
mối liên hệ khuất tất với thủ phạm, chưa thành thật trong cách nhìn vào tầm
quan trọng của thảm họa mội trường, chưa có những biện pháp bồi thường thỏa
đáng cho các nạn nhân, chưa nghiêm chỉnh đặt vấn đề làm sạch tận căn môi trường
biển… thì Bộ Tài Nguyên Môi Trường, cao hơn là cả hệ thống cầm quyền cũng trở
thành đối tượng tranh đấu của các nạn nhân. Khi ấy, vượt biên giới quốc gia, vụ
kiện hành vi phá hoại môi trường sinh thái biển Vũng Áng sẽ nâng cấp lên tới
Tòa án Quốc tế.
Kết thúc bài viết còn
nhiều thiếu sót này, chúng tôi xin ghi lại đây những lời tuyên bố với phái viên BBC hôm 27-9-2016 của
Linh Mục Đặng Hữu Nam, vị lãnh đạo tinh thần của những nạn nhân vụ khiếu kiện
thế kỷ có một không hai này:
“Việc ngư dân khởi kiện Formosa không
phải vì lợi ích cá nhân của họ mà vì dân tộc và giống nòi… Chỉ cần một người bị bệnh tật do thảm họa cá chết
cũng là vấn đề của nhân loại… Lẽ ra nếu Việt Nam có dân chủ thật sự thì vụ kiện
này phải do chính phủ khởi kiện chứ không phải người dân… Tòa án xác nhận với
tôi rằng sau 30 ngày kể từ hôm nay, họ sẽ trả lời là thụ lý đơn kiện hay chuyển
lên tòa cấp cao hơn… Án phí cho vụ kiện dự trù lên đến 4 tỷ đồng.” (Ý nghĩ người
viết: Tới Tòa án QT chắc cao hơn nhiều).
Câu hỏi cuối: mỗi người
chúng ta nghĩ gì và phải làm gì để đóng góp phần mình cho một vụ kiện không vì
lợi ích cá nhân mà vì tương lai quốc gia dân tộc?
Nam California, 01-10-2016 -
TPVũ
[1] Sau này, người ta đã
lấy vịnh Minamata để gọi tên căn bệnh phát sinh từ ô nhiễm môi trường biển này.
[2] Qua những cuộc “đi đêm”
để tránh bị đưa ra tòa án xét xử công khai.
[3] Dù vậy, khi thảm nạn
môi trường bùng nổ, nhiều người đã lên tiếng chỉ trích chính sách phát triển
kinh tế bằng mọi giá của chính quyền thời ấy là căn nguyên cội rễ. Trước hết vì
quá o bế tập đoàn Chisso. Thứ đến, vì thiếu cảnh giác trong việc duyệt xét và
theo dõi những hoạt động của tập đoàn này.
[4] Dr Masazumi Harada từng
được Liên Hiệp Quốc trao tặng huân chương danh dự nhờ những công trình nghiên
cứu của ông về bệnh Minamata,
[5] Mời đọc lại bài về
trường hợp ông Trịnh Vĩnh Bình kiện chính quyền Hànội công bố hôm 30-9-16.
0 comments :
Post a Comment