Lời giới thiệu
Cuộc Khổ nạn của Chúa Giê-su đã được
cả 4 Tin mừng tường thuật lại với nhiều chi tiết hơn bất cứ biến cố nào khác
của đời Người. Nhưng thú thật, chúng ta không mấy xúc động khi đọc các trình
thuật đó, khi muốn rung cảm với sự thống khổ của Chúa chúng ta, không mấy hình
dung được những nỗi đớn đau Người đã gánh chịu. Trước nhất là vì các thánh sử
đã chẳng muốn làm tiểu thuyết gia, nhưng chỉ “vừa phải” và “lạnh lùng” (Pascal)
ghi nhận sự kiện theo những mục tiêu thần học đã nhắm; thứ đến là vì chúng ta
không mấy thấu triệt ý nghĩa của những tiếng quá vắn gọn như “bị đóng đinh”,
“đội mão gai”, “chịu đánh đòn…; sau hết là vì đã quá quen nghe các thuật trình
Khổ nạn.
Để có thể rung cảm với Chúa Giê-su
trong cuộc Thương khó của Người, thì ngoài một đức tin sâu xa và một tình mến
sâu đậm, cần có một ít hiểu biết về cách giải thích bản văn Thánh kinh, về khổ
hình thập giá, về những diễn biến sinh lý xảy ra trong kẻ chịu thứ khổ hình như
vậy, thứ khổ hình mà mọi nhà khảo cứu lịch sử đều nhất trí công nhận là tàn ác
nhất, khủng khiếp nhất.
Pierre Barbet (+1961) là một trong
những người tạo cho ta các điều kiện vừa nói.Ông là một bác sĩ giải phẫu nổi
tiếng tại Pháp đồng thời là một tín hữu nhiệt thành, ham mê khoa chú giải Thánh
kinh. Theo lời yêu cầu của một người bạn linh mục, ông đã nghiên cứu cuộc Khổ
nạn của Chúa dưới nhãn quan của một nhà khoa học, một bác sĩ giải phẫu, dựa
trên 4 trình thuật Thánh kinh, các tài liệu cổ nói về khổ hình thập giá, các
cuộc thí nghiệm khoa học trên thây người, nhất là dựa trên Bức Khăn liệm hiện
để tại thành Turino nước Ý.
Chúng ta biết Khăn liệm này là một
thánh tích mà người ta cho rằng đã dùng để liệm xác Chúa Giê-su. Nó có in nhiều
vết máu và vết thân thể của một kẻ bị đóng đinh.Người ta vẫn tôn kính nó từ bao
thế kỷ và đến năm 1898 thì được khoa nhiếp ảnh khám phá cách đặc biệt. Khi lần
đầu tiên chụp hình Khăn liệm, người ta khám phá thấy nó như là một âm bản, còn
tấm phim chụp (đảo màu) lại như một dương bản, cho ta một bức chân dung hết sức
sống động, lạ lùng. Và kể từ đó, không biết bao nhiêu nhà khoa học, thần học,
chú giải Thánh kinh, cá nhân có, tập thể có, đã cúi mình trên tấm khăn, phân
tích, tìm hiểu đến từng centimét vuông và hầu hết đã công nhận nó là xác thực.
Riêng bác sĩ Pierre Barbet đã nghiên cứu Khăn liệm này từ năm 1932 để tái dựng
lại cách chi tiết cuộc Khổ nạn của Chúa Giê-su và đã lần lượt cho ra các bài
báo nói về “đôi tay của Đấng chịu đóng đinh” (1933), “đôi chân và nhát lưỡi
đòng” (1934), “việc hạ xác và khiêng đến mộ” (1938), “cuộc khổ nạn thể xác của
Chúa Giê-su” (1940), “việc chôn táng Chúa Giê-su” (1948). Đến năm 1950, ông
viết thêm vài bài về Bức Khăn liệm, việc đóng đinh theo khoa khảo cổ, các
nguyên nhân gây ra cái chết, các đau khổ dọn đường, và cho xuất bản tất cả
thành một cuốn sách nhan đề “Cuộc Khổ nạn của Chúa Giê-su Ki-tô theo nhà giải
phẫu” (La Passion de N.-S. Jésus-Christ selon le chirurgien.Paris, Apostolat
des éditions.8è édition, 1965, 264 p.)
Tài liệu mà chúng tôi chuyển dịch
đây là chương kết luận tổng hợp của cuốn sách.Trong chương này, tác giả trình
bày tất cả cuộc Khổ nạn một cách vắn gọn, chính xác và với một giọng văn vô
cùng cảm động.Theo lời ông (trong bài tựa cuốn sách) tài liệu đã được rất nhiều
người tán thưởng và đặc biệt đã được dùng làm tư liệu suy ngắm, giảng dạy trong
mùa Chay, Tuần thánh.
Ước mong những trang được viết với
con tim của một người tín hữu và khối óc của một nhà khoa học sau đây sẽ giúp
chúng ta sống lại cuộc Khổ nạn của Đấng đã điên rồi chọn lấy khổ hình khủng
khiếp nhất để hét to lên rằng Người yêu thương chúng ta.
Dịch giả.
Nếu có một
chuyện hoang đường ăn sâu vào các tâm trí, thì đó là chuyện hoang đường về sự
nhẫn tâm lạnh lùng của các y sĩ giải phẫu: việc thao tác tập luyện không làm
cùn đi những cảm giác và thói quen phải làm một “điều ác” vì một điều thiện
chẳng đặt chúng tôi trong một trạng thái vô cảm xúc cách bình thản sao? Điều ấy
sai lạc hoàn toàn!Cho dẫu chúng tôi cố cứng rắn, không để cảm xúc lộ ra cũng
như làm trở ngại công việc giải phẫu, thì lòng thương xót trong chúng tôi vẫn
luôn luôn sống động và được tinh tế thêm cùng với tuổi đời. Khi người ta đã lâu
năm nghiêng mình trên đau khổ của kẻ khác, đã đích thân nếm thử, thì chắc chắn
người ta dễ thương xót hơn là lãnh đạm, bởi lẽ người ta biết rõ nỗi đau đớn
cùng với các nguyên nhân và hậu quả của nó hơn.
Vì thế, khi
một y sĩ giải phẫu đã suy ngắm về các đau khổ của cuộc Khổ nạn, đã phân tích
thời gian và các hoàn cảnh sinh lý của cuộc Khổ nạn đó, đã chăm chú tái dựng
cách có phương pháp hết mọi giai đoạn của nỗi đớn đau trong một đêm và một ngày
này, thì ông ta có thể cảm thông với
các đau khổ của Đức Ki-tô hơn nhà giảng thuyết hùng biện nhất, hơn nhà khổ hạnh
thánh thiện nhất (ngoại trừ những vị đã được linh kiến trực tiếp và đã thất
kinh vì cảnh tượng này). Tôi xin cam đoan với các bạn rằng đấy thật là kinh
khủng, kinh khủng đến độ tôi không còn dám nghĩ tới. Chắc hẳn là hèn nhát thật,
nhưng tôi nghĩ phải có một nhân đức anh hùng hay là không hiểu, phải là một vị
thánh hay một kẻ vô ý thức nếu muốn đi Đàng Thánh giá. Phần tôi, tôi không thể
đi được nữa.
Tuy nhiên,
người ta đã yêu cầu tôi viết lại chính Đàng Thánh giá đó, và tôi chẳng muốn
chối từ, vì xác tín rằng công việc sẽ sinh ích lợi. Ôi Giê-su nhân lành và dịu dàng, xin đến giúp con. Xin giúp con
biết giải thích các đau khổ Chúa đã gánh chịu. Có lẽ khi cố gắng khách quan,
đem “tính lãnh đạm” của nghề giải phẫu mà đè nén cảm xúc, tôi sẽ có thể đi đến
cùng. Nhưng nếu chưa xong mà tôi đã khóc nức nở, thì xin bạn độc giả hãy làm
như tôi, đừng xấu hổ gì hết; đó là dấu bạn đã hiểu. Vậy xin mời theo tôi. Hướng
dẫn viên của chúng ta là Kinh thánh và Bức Khăn liệm, bức khăn mà việc nghiên
cứu theo khoa học đã chứng minh cho tôi thấy là xác thực hoàn toàn.
Thật ra,
cuộc Khổ nạn đã bắt đầu từ ngày Giáng sinh, bởi lẽ Chúa Giê-su, trong sự toàn
tri của Người, đã luôn luôn biết, thấy và muốn các đau khổ đang chờ đợi nhân
tính Người. Giọt máu đầu tiên đổ ra cho chúng ta là vào lúc Cắt bì, tám ngày
sau Giáng sinh. Ta đã có thể mường tượng ra cảm giác nào được gây nên cho một
con người đã thấy trước chính xác nỗi thống khổ mình sẽ chịu.
Trong thực
tế, lễ toàn thiêu khởi sự từ chính Ghet-sê-ma-ni. Sau khi đã ban Mình Người cho
môn đồ ăn và Máu Người cho môn đồ uống, Chúa Giê-su kéo họ vào vườn Cây Dầu,
nơi thầy trò vẫn có thói quen họp mặt. Để họ lại ở cổng, Người đem 3 môn đồ
thân tín đi xa hơn rồi tách khỏi 3 ông này chừng một khoảng ném đá, để sửa soạn
cầu nguyện. Người biết giờ của mình đã điểm. Chính Người đã tống cổ tên phản
bội làng Ka-ri-ot: “Ngươi tính làm gì thì
làm mau đi” (Ga 13,27). Người nóng lòng kết thúc. Nhưng vì Người đã mặc lấy
thân nô lệ là nhân tính của chúng ta khi nhập thể, nên nhân tính này nổi loạn
lên và đó là tất cả thảm kịch của cuộc chiến đấu giữa ý chí Người với bản tính.
“Người khởi sự kinh hoảng và âu sầu”
(Mc 14,23).
Chén Người
phải uống chứa đựng hai thứ đắng cay. Trước hết là tội lỗi nhân loại mà Người,
Đấng Công chính, phải mang lấy để cứu rỗi anh em mình và đây hẳn là điều cam go
nhất, là một thử thách mà chúng ta không thể tưởng tượng, vì chỉ những người
thánh thiện nhất trong chúng ta mới cảm thấy sự bất xứng và đê tiện của mình
một cách sâu sắc. Có lẽ chúng ta hiểu hơn sự tiên cảm, tiền nếm các cực hình
thân xác Người đã phải chịu trong tư tưởng; tuy nhiên chúng ta cũng chỉ kinh
nghiệm sự rùng mình về các đau khổ quá khứ thôi. Đó là một điều không thể tả. “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này đi
khỏi con! Song đừng cho ý của con, mà là ý của Cha được thành sự” (Lc
22,42). Đây chính là nhân tính của Người đang nói… và đang quy phục, vì thần
tính của Người biết cái mình vẫn muốn từ muôn thuở; con người nơi Chúa Giê-su ở
vào một thế bí. Trong lúc đó, 3 môn đồ thân tín say ngủ; thánh Luca nói: họ say
ngủ “vì buồn phiền” (22,45). Tội
nghiệp!
Cuộc chiến
đấu thật là kinh khủng: một thiên thần đến trợ lực cho Người và xem ra để cùng
lúc đón lấy sự chấp thuận của Người. “Đi
vào cơn chiến đấu, Người cầu nguyện khẩn thiết hơn, và mồ hôi Người nên như
những cục máu đông nhỏ xuống đất” (Lc 22,44). Đây là mồ hôi máu mà một vài nhà chú giải duy lý, vì ngửi thấy có mùi phép
lạ, đã cho rằng chỉ là một hình ảnh tượng trưng thôi. Người ta lấy làm lạ khi
thấy các tay duy vật tân thời này đã có thể thốt ra trong lãnh vực khoa học
không biết bao nhiêu điều ngu ngốc. Lưu ý cho rằng vị thánh sử duy nhất đã ghi
lại sự kiện là một y sĩ. Và vị đồng nghiệp Luca khả kính của chúng tôi, “lương y quý mến” (Cl 4,14), đã làm công
việc đó với sự chính xác, gãy gọn của một thầy thuốc lâm sàng lành nghề. Chứng mồ hôi máu là một hiện tượng rất
hiếmnhưng rất rõ rệt. Như bác sĩ Le Bec viết, nó xảy ra “trong những điều kiện
vô cùng đặc biệt: suy nhược nặng về mặt thể lý, kèm theo chấn động khủng khiếp
trong tâm hồn, do bị một cảm xúc sâu xa, lo sợ dữ dội”. “Người khởi sự kinh hoảng và âu sầu”. Ở đây, nỗi kinh hoàng đã lên
đến tột đỉnh và sự chấn động tâm thần cũng thế. Hai điều này được Luca diễn tả
qua từ “agonia”, mà trong Hy ngữ, vừa
có nghĩa “chiến đấu” vừa có nghĩa “lo âu hồi hộp”. “Và mồ hôi Người nên như
những cục máu đông nhỏ xuống đất”.
Xin được phép giải thích hiện tượng này. Đây là sự trương dãn
dữ dội các mao mạch dưới da khiến chúng bị vỡ ở chỗ tiếp xúc với các túi cùng
của hàng triệu tuyến mồ hôi. Máu trộn lẫn với mồ hôi và đông lại trên da, sau
khi xuất khỏi thân thể. Chính hỗn hợp mồ hôi với máu đông đó tụ lại và chảy
khắp thân với một số lượng đủ để rơi xuống đất. Xin lưu ý: sự xuất huyết tế vi
này xảy ra trong tất cả lớp da, khiến toàn thể da bị thương tổn, bị ê ẩm, bị
mềm đi, mặc sức lãnh đủ mọi trận đòn sắp tới. Nhưng ta hãy để đó đã.
Vì này
Giu-đa và đám đầy tớ của Thượng hội đồng đã đến, võ trang gươm giáo và gậy gộc;
chúng đem theo đèn đuốc lẫn giây thừng. Cũng có cả cơ binh Đền thờ do viên quản
cơ điều khiển. Người ta đã cẩn thận tránh báo động quân Rô-ma và đội lính đồn
An-tô-ni-a. Phiên những kẻ này sẽ đến khi người Do Thái đã tuyên án và xin tổng
trấn Phi-la-tô phê chuẩn. Chúa Giê-su tiến ra, và để tỏ uy lực lần sau hết
trước khi phó mặc cho thánh ý Thiên Chúa, Người phán một lời quật ngã đám vây
bắt xuống đất. Ông Phê-rô can đảm lợi dụng cơ hội này để chém đứt tai tên
Man-khô và Chúa Giê-su đã gắn lại. Phép lạ cuối cùng của Người!
Nhưng lũ
đông hò hét đã vội trấn tĩnh và xông vào trói chặt Đức Ki-tô; chúng lôi Người
đi không mấy nhã nhặn, có thể tin như vậy, để đám tùy tùng của Người chạy
thoát. Đây là sự bỏ rơi, ít nhất theo vẻ bề ngoài. Tuy nhiên Chúa Giê-su biết
Phê-rô và Gio-an vẫn theo Người “xa xa”
(Mc 14,54; Ga 19,15) và biết Mác-cô sẽ chỉ thoát cuộc vây bắt nhờ để mình trần
chạy trốn, bỏ lại cho đám lính gác tấm khăn choàng thân thể.
Này đây họ
đã đến trước Cai-pha và Thượng hội đồng. Vì còn đang đêm nên chỉ có thể thẩm
vấn sơ khởi. Chúa Giê-su từ chối trả lời: giáo thuyết của Người, Người đã rao
giảng cách công khai. Cai-pha bối rối, giận dữ, và một cận vệ của ông thấy thế
đã tặng cho bị can một cái tát như trời giáng: “Dám trả lời Thượng tế như vậy ư?” (Ga 18,22).
Nhưng đây vẫn chưa là gì cả: phải đợi đến sáng ngày mai, khi
lấy khẩu cung các nhân chứng. Chúa Giê-su bị kéo ra khỏi phòng; ngang qua sân,
Người thấy Phê-rô, kẻ ba bận chối mình, và bằng một tia nhìn, Người tha thứ cho
ông. Người bị lôi xuống phòng dưới, và ở đấy, đám đầy tớ vô lại được thỏa thích
hành hạ tên “ngôn sứ giả” (bị trói chặt) mà mới đây đã quật chúng xuống đất
bằng một trò quỷ thuật nào đó không ai hiểu. Chúng dồn dập tát tai, đấm đá,
khạc nhổ vào mặt Người; và cũng vì chẳng có cách nào ngủ được, chúng phải giải
trí đôi chút cho vui. Một tấm khăn phủ chụp đầu Người và mỗi tên thử một phát;
những cú bạt tai vang lên bốp bốp, nghe thật tàn nhẫn: “Hỡi Ki-tô, hãy làm tiên tri đi. Hãy nói cho bọn ta biết: ai đã đánh
mày?” (Mt 26,68). Toàn thân Người đau đớn, đầu Người rung lên như một quả
chuông; Người cảm thấy choáng váng… và vẫn im lặng. Có thể nói một lời làm
chúng thất kinh, “nhưng Người đã chẳng hé
môi một chút” (Is 53,7). Cuối cùng, lũ côn đồ chán nản và để Chúa Giê-su
ngồi đợi.
Trời vừa
sáng là phiên xử thứ hai với một loạt gian chứng thảm hại chẳng minh chứng được
gì. Người phải tự kết án bằng cách quả quyết mình là Con Thiên Chúa, và tên hề
mạt hạng Cai-pha đã lập tức xé áo tuyên bố là phạm thượng. Giờ chỉ còn xin
Rô-ma cái án tử mà họ vẫn tự dành hẳn trong cái xứ bảo hộ này là xong.
Mỏi mệt và
nhừ tử vì bao cú đánh, Chúa Giê-su bị lôi đến đầu mút Giê-ru-sa-lem, lên phần
thành thượng, tới tháp An-tô-ni-a, một loại thành quách được quyền lực Rô-ma
dùng để duy trì trật tự trong cái đô thị quá sôi sục này một cách như ý. Vinh
quang Rô-ma được đại diện ở đây bởi một viên chức khốn khổ là Phi-la-tô, một
thị dân Rô-ma tầm thường thuộc giai cấp hiệp sĩ, một kẻ hãnh tiến quá sung
sướng được cai trị, dù cách khó khăn, một dân tộc cuồng tín, thù nghịch và giả
hình. Phi-la-tô rất ưu tư bảo vệ địa vị, nhưng ông bị kẹt giữa các mệnh lệnh từ
chính quốc và các âm mưu thâm hiểm của những tên Do Thái này, những kẻ đôi khi
rất được các Hoàng đế sủng ái. Tóm lai, đây là một con người khốn khổ. Ông ta
chỉ có một đạo, nếu có một đạo, đó là đạo thờ Hoàng đế. Ông là sản phẩm tầm
thường của nền văn minh man rợ, của thứ văn hóa duy vật. Nhưng oán giận ông mà
làm gì? Được nắn đúc sao, ông ra như vậy; sinh mạng con người đối với ông không
giá trị mấy, đặc biệt nếu đó chẳng phải là một công dân Rô-ma. Ông đã không
được dạy về lòng thương xót, mà chỉ biết có một bổn phận độc nhất: duy trì trật
tự. Mọi tên Do Thái hay gây gổ, dối trá và mê tín này, với đủ thứ cấm kỵ và
thói động gì cũng tắm rửa của chúng, với tính đê hèn và xấc xược của chúng, với
bao phen chúng tố cáo cách bẩn thỉu tại Bộ Thuộc địa một viên chức chỉ biết làm
phận sự hết sức, tất cả những cái đó đều khiến ông ghê tởm. Ông khinh bỉ
chúng... và ông sợ chúng.
Trái lại
Chúa Giê-su, dù trình diện trước ông với đầy vết tím thâm và đờm rãi, vẫn khiến
ông có cảm tình và kính phục. Ông sắp làm tất cả những gì có thể để kéo Người
khỏi nanh vuốt của bọn điên cuồng ấy: “Ông
cố tìm cách tha Người” (Ga 19,12). Ông tự nhủ: “Giê-su là người Ga-li-lê,
vậy ta hãy đưa y sang lão Hê-rô-đê cáo già, tên tiểu vương bù nhìn mà vẫn cho
mình là một nhân vật nào đấy”. Nhưng Chúa Giê-su khinh bỉ con cáo già và chẳng
đáp ông ta một lời nào cả. Đây Người bị dẫn về lại, với lũ côn đồ gào thét, với
đám Biệt phái vừa luôn mồm the thé vừa lúc lắc chòm râu. Phi-la-tô buột miệng:
“Những cuộc thương nghị này thật là bẩn thỉu! Hãy đứng ngoài kia, cái bọn cứ
tưởng hễ vào một phủ đường Rô-ma là ra ô uế”.
Phi-la-tô
bắt đầu hỏi cung con người khiên ông thương cảm. Và Chúa Giê-su không khinh bỉ
ông. Người xót thương sự vô tri của ông; Người dịu dàng trả lời ông và còn cố
chỉ vẻ cho ông nữa. Ông nghĩ: “Chà! Nếu chỉ có bọn vô lại đang hò hét ngoài
kia, thì chỉ cần một đội lính nhất tề cầm giáo xông ra là đủ làm câm họng những
đứa to mồm nhất và giải tán những đứa khác. Mình mới ra lệnh hạ sát trong Đền
thờ mấy tên Ga-li-lê xuẩn động chứ có lâu la gì đâu. Vâng, nhưng bọn nghị viên
thâm hiểm ấy đã khởi sự phao tin rằng mình chẳng phải là bạn của Hoàng đế và
như thế thì không thể đùa giỡn được. Vả lại, bao chuyện Vua dân Do Thái, Con Thiên
Chúa, Đấng Thiên Sai nghĩa là gì?” Nếu đã từng đọc Thánh kinh, có lẽ Phi-la-tô
sẽ là một Ni-cô-đê-mô khác, vì Ni-cô-đê-mô cũng là một kẻ hèn nhát; nhưng chính
sự hèn nhát đó sắp khiến đê vỡ bờ tràn. “Ông này quả là một người công chính;
mình sẽ cho đem đánh đòn (lý luận kiểu Rô-ma!), biết đâu bọn vũ phu kia sẽ động
lòng trắc ẩn!”.
Nhưng tôi
cũng là một kẻ hèn nhát; vì sở dĩ tôi lần lữa biện hộ cho tay thị dân Rô-ma
thảm hại trên, là cốt cho nỗi đớn đau của mình đến chậm lại. “Bấy giờ Phi-la-tô truyền đem Chúa Giê-su đi
và đánh đòn Người” (Ga 19,1).
Toán lính
gác dẫn Chúa Giê-su vào phòng chính của phủ đường và kêu tất cả đội binh đến
yểm trợ; trong xứ bị trị này, trò tiêu khiển rất hiếm. Tuy nhiên nên nhớ là
Chúa đã thường tỏ thiện cảm đặc biệt với các quân nhân. Người đã ngợi khen lòng
tin tưởng, đức khiêm tốn cũng như sự ân cần âu yếm của viên bách quản đối với
tên đầy tớ mà Người đã cho bình phục! Và vài giờ nữa, chính viên bách quản canh
đồi Can-vê sẽ là kẻ đầu tiên công bố Người là Con Thiên Chúa. Nhưng ở đây đội
binh như bị xâm chiếm bởi một cơn điên cuồng tập thể mà Phi-la-tô đã không ngờ.
Vì có Sa-tan đứng đấy, khơi nỗi căm hờn cho họ.
Và lần này
không nói năng gì nữa, chỉ toàn là đánh thôi. Bọn lính lột áo Người và để trần
truồng mà xích vào một cây cột giữa phòng chính. Đôi cánh tay Người bị kéo lên
không và cổ tay bị trói vào đỉnh cột.
Để đánh đòn, đám
lính dùng roi có nhiều dây da, đầu mỗi dây gắn hai viên chì hay hai cục xương
nhỏ. (Các vết tích trên Khăn liệm ít ra tương ứng với loại roi có tua này).
Luật Do Thái ấn định 39 đòn thôi. Nhưng bọn lý hình là những tên lính viễn
chinh hung dữ điên cuồng, nên chúng đánh cho đến khi nạn nhân gần ngất xỉu.
Trong thực tế, các dấu vết trên Khăn liệm có rất nhiều và phần lớn đều nằm ở
mặt sau, vì phần trước thân thể dựa vào cột. Người ta thấy chúng trên vai, trên
lưng, trên thắt lưng và trước ngực. Các ngọn roi còn xuống thấu đùi, thấu bắp
chân nữa; và ở đó các tua da vòng quanh chân, in một đường lằn lên mặt trước
cẳng chân.
Có 2 lý hình đứng hai bên, tên cao tên thấp (người ta suy ra
như thế từ hướng của các vết trên Khăn liệm). Chúng đánh dồn dập, với tất cả
sức lực mình. Trong những cú đầu, các tua roi để lại nhiều vệt dài xanh mét,
nhiều vết bầm tím dưới da. Xin nhớ cho: da Chúa Giê-su đã bị biến đổi và đau
nhức lên bởi hàng triệu chỗ xuất huyết bên trong khi Người đổ mồ hôi máu. Nay
các viên chì còn in dấu sâu hơn nữa. Rồi
da bị máu thấm đầy, mềm dần, nứt ra dưới những ngọn đòn mới. Máu phun, nhiều
mảng da tách rời và treo lủng lẳng. Tất cả phía sau chỉ còn là một mặt phẳng đỏ
lòm, trên ấy nổi lên nhiều đường rãnh lớn và chi chít những vết thương sâu hơn
do các viên chì để lại. Chính các vết thương hình quả tạ này sẽ in lên Khăn
liệm về sau.
Cứ mỗi ngọn
đòn, thân thể Chúa Giê-su giật nẩy lên một cách đau đớn. Nhưng Người chẳng mở
miệng và sự câm lặng ấy càng gia tăng cơn điên cuồng quỷ quái của các lý hình
hơn. Đây không còn là việc thực thi cách lạnh lùng một mệnh lệnh tòa án, nhưng
là cơn cuồng nộ của một bầy quỷ. Máu chảy dầm dề từ hai vai xuống đất, phủ đầy
sàn gạch, và cứ mỗi lần roi cất lên là bắn như mưa vào áo choàng của tốp lính
đứng xem. Nhưng chẳng mấy chốc kẻ bị hành hình đã kiệt lực: một thứ mồ hôi lạnh
tuôn ra trên trán Người; đầu quay cuồng lảo đảo như muốn nôn mửa và Người cảm
thấy ớn lạnh khắp xương sống. Đôi chân Người quỵ xuống, và nếu cổ tay không
được treo rất cao thì có lẽ Người đã gục ngã trên vũng máu đào. “Dù ta không
đếm nhưng như thế thì nó cũng đã lãnh đủ.Dẫu sao, đã có lệnh không được giết nó
bằng roi. Hãy để cho nó hồi tỉnh; còn lắm trò giải trí!”.
“A! tên đại
ngu này tự xưng là vua, mà là vua tụi Do Thái nữa chứ, thực lố lăng đến cực
điểm! Nó đã phải khổ sở vì thần dân nó; thôi, chẳng can gì, chúng ta sẽ là thần
dân nó vậy. Mau! Kiếm một áo bào, một vương trượng mau!”.Chúng đặt Người ngồi
trên một đế cột (vương quyền không vững lắm!). Một tấm áo choàng cũ của lính
Rô-ma khoác lên vai trần làm vương phục, một cây sậy lớn được nhét vào tay phải
và như thế là hoàn toàn nếu có thêm một
triều thiên. (Triều thiên này là một vật độc đáo; trong mười chín thế kỷ
nữa, nó sẽ giúp nhận ra Người, vì đã chẳng có một tội nhân thập giá nào mang nó
cả).Trong góc, có một bó củi vụn gồm nhiều loại cây nhỏ mọc um tùm trong các
bụi bờ vùng ngoại ô. Chúng dễ uốn, có gai dài, dài hơn, sắc hơn và cứng hơn cây
xiêm gai nữa.Người ta cẩn thận đan thành một thứ mủng rồi chụp lên chỏm đầu
Người.Đoạn bẻ cụp miệng mủng xuống và với một cái dải bằng lác xoắn lại, người
ta siết chặt đầu ngang trán và gáy Chúa Giê-su.
Gai đâm thâu da đầu và chảy máu.(Y sĩ giải phẫu chúng tôi
biết thế nào là chảy máu da đầu).Lập tức sọ phết đầy máu đông; nhiều dòng suối
máu chảy xuống trên trán, dưới dải lác, tưới ướt những mớ tóc rối bù và ngập cả
chòm râu.
Hài kịch
bái yết khởi sự. Các tên lính lần lượt đến bái gối trước Người, nhăn mặt cách
ghê tởm, rồi tát Người một cái nên thân: “Kính chào vua Do Thái” Nhưng Chúa
Giê-su không buồn đáp lại. Khuôn mặt hốc hác và tái xanh của Người chẳng chút
nhúc nhích. Điên tiết lên, đám thần dân trung tín nhổ toẹt vào mặt Người, hét
lớn: “Đưa vương trượng đây, không biết cầm gì cả!”.Bụp! một phát thật mạnh trên
mũ gai, gai càng đâm sâu vào, rồi một trận mưa gậy tới tấp. Tôi không còn nhớ
có phải là từ một trong các tên lính Rô-ma ấy hay từ một trong các đầy tớ của
Thượng hội đồng mà Chúa Giê-su đã lãnh phát gậy mạnh tôi đang thấy đây không.
Phát gậy đánh xiên này đã để lại trên má phải một vết bầm dập khủng khiếp và
làm cho chiếc mũi Do Thái quý phái của Người méo mó đi vì gãy xương sụn.Máu
tuôn ra từ hai lỗ mũi chảy xuống râu mép. Lạy Chúa tôi, đủ rồi!
Nhưng này Phi-la-tô đã trở lại, hơi lo âu về số phận tù
nhân: “Không biết bọn vũ phu kia đã làm gì? Ái chà! Chúng đã tẩn cho y một trận
đích đáng.Làm sao mà tụi Do Thái không thỏa mãn?”Rồi ông đem Chúa ra nơi bao
lơn phủ đường cho họ xem, trong vương phục của Người, hơi kinh ngạc thấy mình
cũng có chút xót thương đối với tấm giẻ rách mang dạng người ấy. Nhưng ông đã
không tính đến nỗi căm hờn của họ: “Đem
đi, đóng đinh nó vào thập giá!” (Ga 19,15). Lũ quỷ! Nhất là luận điệu kinh
khủng đối với ông: “Nó đã tự xưng là vua; nếu ông tha nó, ông chẳng còn là bạn
thiết của hoàng đế nữa!” Bấy giờ con người hèn nhát bỏ cuộc và rửa tay. Nhưng,
như thánh Au-gus-ti-nô sẽ viết, “hỡi Phi-la-tô, không phải ông đã giết Người,
song chính là quân Do Thái với ba tấc lưỡi sắc bén của họ; sánh với họ, ông còn
vô tội hơn” (Tr. super psalmos, Ps 63).
Chúa Giê-su
bị lột chiếc áo choàng đỏ đã dính vào mọi vết thương của Người.Máu lại tuôn
chảy; Người ớn lạnh toàn thân.Bọn lính mặc lại cho Người y phục mà bây giờ thì
nhuộm một màu đỏ thắm.Cây thập giá đã
sẵn, họ tức tốc đặt lên vai phải Người.Nhờ phép lạ nghị lực nào mà Người có
thể đứng vững dưới gánh nặng ấy?Thật ra, không phải tất cả cây thập giá, nhưng
chỉ có thanh ngang (patibulum) mà
Người phải vác tới Núi Sọ, nhưng thanh ngang này cũng đã nặng tới 50 ki-lô.Cây cột đứng (stipes) đã chôn sẵn tại Can-vê
rồi.
Và Người bắt đầu cất
bước, hai bàn chân không dẫm lên những con đường gồ ghề đá sỏi.Toán lính
nắm những sợi dây cột ngang lưng Người, lo lắng chẳng biết Người có đi tới đích
không. Hai tên trộm bước theo làm thành một bọn. May thay, con đường không dài
lắm, chỉ khoảng 600 mét, và đồi Can-vê gần như nằm ngoài cửa Eph-ra-im. Nhưng
lộ trình này rất gồ ghề, ngay cả bên trong thành lũy.Chúa Giê-su cực nhọc lê
từng bước và lắm lần ngã quỵ.Người bổ xuống trên hai đầu gối mà chẳng mấy chốc,
chỉ còn là một vết thương. Các binh sĩ hộ tống lôi Người đứng lên nhưng không
ngược đãi lắm: chúng cảm thấy Người có thể chết dọc đường bất đắc kỳ tử.
Và luôn
luôn cái đòn ngang sù sì đó, nằm thăng bằng trên vai, làm cho vai bị thương
cũng như muốn hết sức lõm sâu vào. Điều này tôi biết rõ: vì ngày xưa, trong
ngành công binh, tôi đã từng khuân vác nhiều đòn ngang đường xe lửa bào láng,
và tôi biết cái cảm giác lõm sâu trong đôi vai cứng cát lành lặn. Nhưng vai của
Người thì phủ đầy vết thương, chúng cứ mở ra, rộng dần và đào sâu thêm mỗi lần
cất bước.Người kiệt lực. Trên chiếc áo lót không đường khâu của Người, một vết
máu to tướng mãi lan dần và chạy dài thấu lưng. Người còn ngã xuống và lần này
thì nằm sóng sượt; đòn ngang tuột khỏi tay, quật vào lưng, khiến lưng sây sát.
Người có thể chỗi dậy được nữa không? May thay vừa đi qua một kẻ từ ngoài đồng
về, ông Si-mon làng Ky-rê-nê, người mà rồi đây, như hai con là A-lê-xan-drô và
Ru-phô, sẽ là một Ki-tô hữu ngoan đạo. Tốp lính trưng dụng ông để vác cây đòn
ngang; ông già tử tế không xin gì hơn nữa. Được lắm chứ! Sau hết, chỉ còn đồi
Gôn-gô-ta phải leo, và người ta cũng cực nhọc lên được tới đỉnh. Chúa Giê-su
ngã gục xuống và việc đóng đinh bắt đầu.
Ồ! Không
rắc rối lắm; các lý hình biết rõ nghề của họ.Trước hết phải lột trần Người
ra.Áo trên thì còn dễ.Nhưng chiếc áo lót đã dính sâu vào mọi vết thương, có thể
nói vào toàn thân Người, thì lột ra
là một cực hình khủng khiếp. Bạn đã có bao giờ lột một miếng băng dính khô vào
một vết thương giập mà lớn chưa? Hay chính bạn đã có bao giờ chịu đựng thử
thách ấy mà đôi lúc phải đánh thuốc mê chưa? Nếu có, thì bạn có thể biết được
đấy là gì.Mỗi sợi vải dính vào lớp thịt và khi kéo lên, nó lại giựt ra một
trong vô số mút dây thần kinh để trần trong vết thương đó. Cả ngàn cơn va chạm
đau đớn này cộng với nhau, nhân với nhau, càng lúc càng khiến hệ thần kinh chấn
động. Thế mà ở đây đâu phải thương tổn một nơi, nhưng hầu như khắp mặt thân
thể, đặc biệt trên cái lưng tơi tả này. Các lý hình vội vã nên chẳng nhẹ tay gì
hết. Có lẽ như vậy tốt hơn, nhưng làm sao nỗi buốt đau khốc liệt đó không gây
nên bất tỉnh?Rõ ràng là từ đầu đến cuối, Chúa Giê-su điều khiển, làm chủ cuộc
Khổ nạn của Người.
Máu chảy
xối một lần nữa.Người ta đè ngửa Chúa Giê-su xuống.Họ có để lại cho Người chiếc
khố nhỏ mà vì liêm sỉ, dân Do Thái vẫn dành cho các tử tội không?Thú thật tôi
chẳng biết; điều đó không quan trọng.Dẫu sao, trong Khăn Liệm, Người sẽ trần
truồng.Các vết thương ở lưng, đùi, bắp chân bám đầy bụi và sạn nhỏ.Người được
đặt nằm dưới cây cột đứng, hai vai kê lên đòn ngang. Lý hình đo kích tấc, khoan
sẵn lỗ để đinh dễ thâu xuống, và sự kinh khủng bắt đầu.
Một
trợ thủ kéo dài cánh tay Chúa ra, lòng bàn tay để ngửa. Tên lý hình cầm lấy
đinh (một cái đinh dài, vuông, nhọn, đầu rộng khoảng 8mm), đâm lên cổ tay, nơi
nếp trước mà y đã quá quen do kinh nghiệm. Và chỉ một nhát búa là đinh đã thâu
xuống gỗ, thêm vài cú đập mạnh là cắm chắc
Chúa Giê-su đã không la lên, tuy nhiên khuôn mặt Người co
rúm lại một cách khủng khiếp. Nhưng nhất là cùng lúc ấy, tôi thấy ngón cái của
Người bẻ gập một cách chớp nhoáng, dữ dội vào lòng bàn tay: dây thần kinh giữa của Người đã bị chạm.
Tôi cảm thấy điều Người đã cảm thấy: một cơn đau nhói khôn tả, phân tán khắp
mọi ngón tay, phóng lên vai như một tia lửa và nổ tung trong não bộ Người. Cơn
đau vì bị thương các dây thần kinh lớn đó là cơn đau ghê gớm nhất mà một người
có thể cảm nhận được.Nó hầu như luôn gây bất tỉnh và như thế là có phúc
lắm.Nhưng Chúa Giê-su đã không muốn bất tỉnh.Càng dễ bất tỉnh hơn nếu dây thần
kinh bị chặt đứt hoàn toàn. Nhưng không, tôi đã có kinh nghiệm: nó chỉ bị hủy
một phần thôi; vết thương của dây thần kinh vẫn còn đụng chạm tới cái đinh ấy;
và lát nữa đây, khi thân mình đã được treo lên, dây thần kinh sẽ căng mạnh trên
đinh như sợi dây vĩ cầm trên ngựa đỡ. Nó sẽ rung mỗi lần lắc lư, mỗi lần cử
động, khơi dậy cơn đau khủng khiếp. Mà liên tiếp như thế 3 giờ đồng hồ.
Cánh tay kia cũng bị tên trợ thủ kéo ra; các cử chỉ lúc nãy
được lặp lại, cùng với các cơn đau như thế. Nhưng lần này, Chúa Giê-su biết có
gì đang chờ đợi. Giờ đây Người đã bị đóng chặt trên đòn ngang, hai vai và hai
cánh tay nằm thẳng băng trên đó. Người đã có hình thập giá: trông Người thật vĩ
đại!
“Đứng dậy
đi nào!”. Tên lý hình và tên trợ thủ nắm chặt hai đầu đòn ngang, nâng kẻ bị án
ngồi dậy, đứng lên, rồi nhích lui một chút, đẩy Người dựa vào cột. Nhưng eo ôi,
bằng cách kéo trên hai tay bị đóng đinh, trên hai dây thần kinh giữa của Người!
Đoạn với tất cả sức lực, vì thật ra khá nặng, chúng nhanh nhẹn nhấc đòn ngang
lên, móc một cách khéo léo vào đầu cây cột.Cột này không cao bao nhiêu (khoảng
2m).Rồi với vài cái đinh, chúng đóng tấm biển viết bằng ba thứ tiếng lên chóp
cột.
Lúc ấy thân
thể Người hơi trịu xuống, kéo dài hai cánh tay theo đường xiên. Đôi vai đã bị
thương vì roi và vì vác thập giá nay cọ xát một cách đau đớn vào thớ gỗ sù
sì.Gáy Người trước đây nổi lên trên đòn ngang, nay tụt xuống, lướt đụng đòn
ngang, dừng ở đỉnh cột, khiến bao mũi nhọn của chiếc mũ gai càng lút vào sọ sâu
hơn.Cái đầu đáng thương của Người chúi về phía trước, vì bề dày của mão gai
không cho phép nó dựa vào gỗ; và mỗi lần ngửng lên là khơi dậy lại các vết châm
chích.
Tấm thân tòn ten của Người chỉ được giữ bằng hai cái đinh
đóng vào xương cổ tay (ôi, hai dây thần kinh giữa của Người!). Nó có thể đứng
yên mà chẳng cần gì khác.Thân hình không bổ ra đằng trước được.Nhưng luật là
phải đóng cứng hai bàn chân.Để làm việc này, người ta chẳng cần đế gỗ nhưng chỉ
uốn cong hai đầu gối và ép thẳng đôi bàn chân lên cột. Tại sao bắt thợ mộc làm
đế đó, vì thực sự vô ích. Người ta đâu có muốn xoa dịu cơn đau của kẻ bị xử tử.
Sau khi bàn chân trái được ép thẳng lên thập giá, thì chỉ cần một nhát búa là
đinh đã thâu vào trung tâm bàn chân (giữa đốt xương thứ hai và đốt xương thứ
ba). Tay trợ thủ cũng bẻ cong đầu gối còn lại và tên lý hình đem bàn chân trái
đè lên bàn chân phải đang được giữ nằm thẳng, đoạn với một nhát búa thứ hai, y
đâm thủng bàn chân này vào chỗ như đã nói. Mọi sự đều dễ dàng, và rồi vài cú
nện mạnh là đinh đã thâu vào gỗ. Cám ơn Chúa, ở đây chỉ có một cơn đau thường,
nhưng khổ hình sau đó mới khởi sự. Làm hai người, tất cả công việc chỉ kéo dài
đôi phút và các vết thương chỉ chảy máu sơ sơ.Đoạn người ta chiếu cố đến hai
tên trộm; và lát sau, cả ba thập giá xong xuôi, mặt quay về phía thành giết
Chúa.
Chúng ta đừng nghe lũ người Do Thái đang đắc thắng cười nhạo
sự đau khổ của Chúa Giê-su. Người đã tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ
làm.Trước tiên Người trịu xuống.Sau bao nhiêu cực hình, thì đối với một cơ thể
kiệt lực, vị thế bất động đó có vẻ như một sự nghỉ ngơi, trùng hợp với việc suy
giảm sức kháng cự trong Người.Nhưng kìa, Người
cảm thấy khát.Tuy nhiên Người chưa nói.Trước khi nằm xuống trên đòn ngang
lúc nãy, Người đã từ chối liều thuốc giảm đau, chén rượu có hòa mộc dược và mật
đắng mà mấy phụ nữ bác ái Giê-ru-sa-lem đã chế cho Người.Nỗi đau của mình,
Người muốn phải trọn vẹn.Người biết mình sẽ làm chủ nó.Người khát. Vâng, “Lưỡi với hàm tôi đã dính chặt cùng nhau”
(Tv 21,6). Từ tối hôm qua đến rày, Người đã không ăn uống gì cả. Bây giờ là
chính ngọ. Mồ hôi ở Ghet-sê-ma-ni, cơn xuất huyết lớn tại phủ đường, bao cơn
xuất huyết nhỏ khác, kể cả tí máu đang ri rỉ từ các vết thương tay chân Người
đây, hết thảy đã lấy đi một phần lớn khối máu của Người. Người khát.Nét mặt
Người căng ra.Khuôn mặt xanh xao hốc hác của Người chằng chịt những vết máu
đông lại. Miệng Người hé mở và môi dưới của Người đã bắt đầu xệ xuống! Một ít
nước miếng chảy trong râu Người, hòa lẫn với máu xuất ra từ chiếc mũi bị
gãy.Họng Người khô và nóng như thiêu đốt, nhưng Người không thể nuốt được
nữa.Người khát. Trong bộ mặt sưng phù, đẫm máu và méo mó đây, làm sao có thể
nhận ra đứa con đẹp nhất của loài người được? “Thân sâu bọ chứ người đâu phải” (Tv 21,6). Khuôn mặt ấy thật là
kinh tởm, xấu xí, nếu ta không thấy chói ngời lên trong đó vẻ uy nghi bình thản
của vị Thiên Chúa muốn cứu rỗi anh em mình. Người khát! Chốc nữa đây Người sẽ
nói thế để kiện toàn Thánh Kinh. Và một tên lính, che giấu lòng thương xót dưới
một lời chế diễu, sẽ thấm miếng bọt bể vào chén rượu của y (các Tin Mừng gọi là
giấm) để đưa lên cho Người ở đầu một cây sậy. Người có uống một giọt nào
không?Người ta bảo rằng nếu uống, thì những kẻ bị hành hình kiểu ấy sẽ ngất đến
chết được.Làm sao sau khi uống, Người còn có thể nói được hai ba lần nữa?
Không, không! Người sẽ chết vào giờ của Người. Người khát!
Và điều đó vừa khởi sự.Nhưng chỉ lát sau, xảy ra một hiện
tượng lạ lùng. Các bắp thịt nơi cánh tay Người tự nhiên săn cứng, trong một sự
co rút càng lúc càng tăng: các cơ tam giác, cơ nhị đầu (ở ngực, ở tay) của
Người lồi lên dễ sợ. Mấy ngón tay của Người uốn cong lại thành móc. Chuột rút! Hết thảy các bạn đã ít nhiều
cảm biết cơn đau từ từ và nhức nhối đó nơi bắp chân, giữa hai xương sườn, lan
man khắp thân thể. Phải lập tức ngưng mọi việc để làm dãn bắp thịt co rút ấy
bằng cách kéo dài nó ra.Nhưng kìa, nơi đùi và cẳng chân Chúa Giê-su giờ cũng có
những chỗ lồi cứng nhắc dễ sợ như thế, và các ngón chân Người uốn cong lại.
Trông như một kẻ mắc phải bệnh phong đòn gánh (uốn ván: tétanos) với những cơn
dày vò kinh khủng mà hễ thấy một lần là chẳng bao giờ quên. Nhưng đây là chứng co cứng cơ (tétanie) vì hiện tượng chuột
rút lan khắp cơ thể. Các cơ bụng săn cứng thành những con sóng bất động, rồi
đến các cơ cổ và các cơ hô hấp. Hơi thở Người dần dần trở nên ngắn hơn, cạn
hơn. Xương sườn Người, trước đây đã bị nâng lên do hai cánh tay kéo, nay còn bị
nâng cao hơn nữa. Bụng trên trũng vào và các hốc xương đòn vai cũng vậy.Không
khí đi vào kêu veo veo nhưng hầu như chẳng ra nữa.Người hô hấp lớn tiếng song
không thể thở ra mà chỉ có hít sơ sơ vào.Người khát dưỡng khí (như một kẻ mắc
bệnh suyễn đang lên cơn hen). Khuôn mặt tái mét của Người đỏ dần, đoạn chuyển
qua tím rồi hóa xanh dương. Người bị ngạt
thở.Hai buồng phổi ứ đầy của Người không thể tuôn thán khí ra được nữa.Trán
Người phủ mồ hôi.Đôi mắt lồi của Người lảo đảo. Ai có thể nói được nỗi đau tàn
khốc nện như búa vào sọ Người! Người sắp chết. Mà như vậy càng tốt! Người đã
chẳng đau khổ đủ rồi ư?
Nhưng
không, giờ Người chưa đến. Đói khát, xuất huyết, ngạt thở, đớn đau không thể
thắng vị Thiên Chúa cứu đời, và nếu có chết với những triệu chứng đó, Người
cũng sẽ chết thật chỉ vì Người muốn thôi, bởi lẽ “Người có quyền cất mạng sống bản thân và lấy lại” (thánh
Au-gus-ti-nô). Và Người cũng sẽ phục sinh cách như thế. Alleluia!
Vậy thì
chuyện gì xảy ra? Chầm chậm, với một nỗ lực phi phàm, Người tựa trên cái đinh ở
hai bàn chân, vâng, trên vết thương Người, để ráng đứng thẳng. Cổ chân lẫn hai
đầu gối duỗi dần và toàn thân lật bật rướn lên, giảm sức kéo của đôi cánh tay
lại (sức kéo này là 90kg trên mỗi bàn tay). Lúc ấy, hiện tượng nói trên tự giảm
dần, chứng co cứng cơ thối lui, các bắp thịt dãn bớt, ít nhất là các bắp thịt
ngực. Hô hấp trở nên đầy đủ hơn, buồng phổi thải bớt thán khí và chẳng mấy chốc
khuôn mặt trở lại sắc xanh như ban đầu.
Tại sao phải nỗ lực như thế? Đó là vì Người muốn nói với
chúng ta: “Cha ơi, xin tha cho họ” (Lc
23,34). Vâng, Người muốn tha cho chúng ta là các lý hình của Người.Nhưng chỉ
một lát sau, thân mình Người lại bắt đầu trịu xuống… và chứng co cứng cơ tiếp
tục.Hễ mỗi lần muốn nói (chúng ta đã giữ lại ít nhất 7 lời của Người) và mỗi
lần muốn thở, Người sẽ phải rướn mình lên, đứng trên cái đinh ở đôi bàn chân
như vậy.Và mỗi cử động đều dội lên hai bàn tay thành những cơn đau khôn kể xiết
(Ôi, hay dây thần kinh giữa của Người!). Đây là sự ngạt hơi định kỳ của kẻ bị
người ta bóp cổ rồi cho hồi tỉnh, để có thể làm chết ngột nhiều phen.Sự ngạt
hơi này, Chúa Giê-su chỉ có thể thoát một chốc nếu bằng lòng chịu những cơn đau
ác liệt và với một sự gắng sức ghê gớm.Mà việc đó diễn ra liên tiếp trong 3 giờ
đồng hồ. Thôi, lạy Chúa, xin Ngài chết đi cho!
Tôi đứng
đó, dưới chân thập giá, với Mẹ Người, với Gioan, với những phụ nữ đã phục vụ
Người. Viên bách quản hơi đứng riêng ra và chú tâm quan sát với sự kính cẩn.
Giữa hai lần ngạt thở, Người rướn dậy và nói: “Hỡi con, đây là Mẹ con”. Vâng,
Mẹ dấu yêu, từ ngày đó Mẹ đã nhận chúng con làm con cái Mẹ. Một lát sau, tên
trộm lành khốn khổ đã xin mở được cửa Thiên đàng.Nhưng Chúa ơi, vậy thì bao giờ
Chúa mới chết?
Con biết
rằng cuộc Phục sinh đang chờ đợi Chúa và thân thể Chúa sẽ chẳng bị hư nát như
thân thể chúng con. Vì đã có viết rằng: “Người
sẽ chẳng để Đấng Thánh Người thấy sự hư nát” (Tv 15,10). Nhưng Giê-su tội
nghiệp của con ơi, mọi vết thương của Chúa đã bị nhiễm độc cả rồi, ít hơn thế
mà cũng còn bị nữa. Con thấy rõ là từ các vết thương ấy rỉ ra một thứ nước màu
vàng hoe, trong vắt, đọng lại ở chỗ trũng thành một lớp vảy như sáp. Trên các
vết thương cũ nhất đã thành hình những lớp màng tiết ra một thứ mủ. Đúng như
lời đã viết: “Các vết thương con nhiễm
trùng và mưng mủ” (Tv 37,5).
Một đám
ruồi gớm ghiếc, thứ ruồi xanh thường thấy ở đống xác chết và lò sát sinh, cuộn
bay quanh thân Người và thình lình hạ xuống trên một vết thương để hút lấy dịch
và đẻ trứng vào đó. Chúng hăm hở tấn công vào mặt mà chẳng có cách nào đuổi
đi.May thay, trời sẫm lại, mặt nhật khuất hẳn, khí thình lình lạnh buốt.Nên bầy
ruồi cũng dần dần bay xa.
Sắp hết ba
giờ rồi.Dầu vậy, Chúa Giê-su vẫn chiến đấu.Thỉnh thoảng Người lại rướn lên. Mọi
đớn đau, đói khát, chuột rút, tắt hơi, rung hai dây thần kinh đều không giựt
được khỏi miệng Người một lời phàn nàn than thở. Nhưng nếu trong khi thân bằng
quyến thuộc của Người có đó thì Chúa Cha, và đây là thử thách tối hậu, xem ra
đã bỏ Người: “Lạy Cha, lạy Cha! Sao Cha
bỏ con?” (Mt 27,46; Mc 15,34; Tv 21,1).
Bây giờ
Người biết mình sắp ra đi. Người kêu lớn tiếng: “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19,30). Chén đắng đã uống cạn.Sứ mạng đã
hoàn thành. Rồi, rướn lên một lần nữa và như để cho chúng ta biết Người chết vì
Người muốn, “Người kêu một tiếng lớn”
(Mt 27,50): “Lạy Cha, con xin phó thác
hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Người chết khi Người muốn. Đừng còn ai
nói với tôi là vì những nguyên nhân sinh lý học!
“Lạy Chúa,
chúc tụng Chúa vì đã dựng nên cái chết thể xác, người chị của chúng con!”
(Thánh Phan-xi-cô A-xi-di-ô, Bài ca Tạo vật). Vâng, lạy Chúa, xin chúc tụng
Chúa vì đã thật sự muốn chết. Bởi lẽ chúng con không còn chịu nổi nữa. Giờ đây
tất cả đều tốt đẹp.Trong một hơi thở cuối cùng, đầu Chúa từ từ gục thẳng xuống
đằng trước, về phía con, cằm kê trên xương ức. Giờ con mới thấy rõ khuôn mặt
dãn ra và tươi tỉnh của Chúa, khuôn mặt mà dù mang bao vết thương ghê tởm, vẫn
rạng ngời vẻ uy nghi rất hiền dịu của vì Thiên Chúa luôn hiện diện bên trong.
Con quỳ sụp xuống trước Chúa, hôn đôi bàn chân bị đóng đinh của Chúa, nơi máu
vẫn còn chảy và đông lại đầu ngón chân. Tử thi Chúa cứng đờ.Đôi chân Chúa rắn
như sắt… và nóng như lửa.Chứng co cứng cơ đã làm cho thân nhiệt Chúa tăng không
thể tưởng tượng.
Đất rung
chuyển, mặt trời khuất bóng, nhưng đối với con có quan trọng gì. Giu-se đã đi
gặp Phi-la-tô để xin xác Chúa và ông sẽ chấp thuận ngay. Ông ghét lũ người Do
Thái đó, những kẻ đã ép ông giết Chúa cho kỳ được; tấm biển trên đầu Chúa như
muốn nói to lên nỗi thù oán của ông: “Giê-su vua người Do Thái”, vì vua bị đóng
đinh như một tên nô lệ! Viên bách quản trung hậu đã ra đi tường trình sau khi
tuyên xưng Chúa thật là Con Thiên Chúa. Chúng con sắp hạ xác Chúa xuống và việc
đó sẽ dễ dàng, một khi đinh hai bàn chân được nhổ. Giu-se và Ni-cô-đê-mô sẽ
tháo đòn ngang khỏi cột. Gio-an môn đồ Chúa yêu sẽ nâng hai chân; và với một
tấm ra xoắn lại thành dây, hai người trong chúng con sẽ đỡ thắt lưng Chúa. Tấm
khăn liệm đã trải sẵn trên phiến đá đây rồi, trước phần mộ; ở đó, người ta sẽ
thư thả nhổ đinh hai tay Chúa ra. Nhưng có ai đang đến kìa?
À thì ra lũ
người Do Thái đã xin Phi-la-tô cho dẹp khỏi đồi những cây thập tự giá chướng
tai gai mắt và làm ô uế cuộc lễ ngày mai. Đúng là nòi rắn độc gạn lọc con muỗi
nhưng lại nuốt chửng cả con lạc đà! Nhiều binh lính dùng gậy sắt đánh gãy đùi
hai tên trộm.Họ treo tòn ten một cách thảm thương, và vì không thể đứng trên
hai chân được nữa, nên chỉ lát sau là chết vì ngạt thở và co cứng.
Nhưng đối
với Chúa lúc này thì chẳng có gì phải làm cả. “Các ngươi chớ đánh gãy một xương nào của Người” (Ga 19,36; Xh
12,46; Ds 5,12). Vậy hãy để chúng tôi yên; các anh không thấy Người đã chết đấy
ư?Dĩ nhiên rồi, binh lính bảo.Nhưng một tên trong đám đã có một ý tưởng kỳ lạ.
Bằng một cử chỉ bi thảm và chính xác, y nâng cán giáo lên và đâm xiên một phát
thật sâu vào cạnh sườn bên phải. Trời! Sao thế? “Và lập tức máu cùng nước chảy ra” (Ga 20,34). Gioan đã thấy, tôi
cũng thấy, và chúng tôi không nói láo: có một vòi máu đen lỏng bắn ra trúng
ngay tên lính và dần dần chảy xuống trên ngực, đông lại thành nhiều lớp chồng
lên nhau. Nhưng đồng thời, đặc biệt rõ rệt trên các đường viền, chảy ra một
chất lỏng trong như nước.Xem nào, vết thương nằm bên ngoài và bên dưới núm vú,
và nhát đâm hơi xiên lệch. Thành thử là máu từ tâm nhĩ phải và nước từ ngoài
màng tim. Giê-su tội nghiệp của con ơi, thì ra quả tim của Chúa đã bị nén bởi
chất lỏng này và đã gây thêm cho Chúa một cơn đau khắc khoải, khủng khiếp vì
như phải bị siết trong một gọng kềm thật chặt.
Những điều chúng con đã thấy chưa đủ sao? Phải chăng để
chúng con biết thêm nỗi lòng của Chúa mà tên lính kia đã ra tay một cách kỳ lạ?
Có lẽ cũng vì quân Do Thái đã cho rằng Chúa không chết thật mà chỉ bất tỉnh đi
thôi.Dẫu sao thì cuộc phục sinh của Chúa đòi hỏi chứng cớ này. Cảm ơn anh lính,
cảm ơn Lon-gi-nô; một ngày kia anh sẽ được phúc tử đạo.
*
* *
Và bây giờ,
thưa bạn độc giả, chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã cho tôi có sức viết đến chữ cuối
cùng, trong chan hòa nước mắt! Mọi đớn đau kinh khủng mà chúng ta đã trải
nghiệm trong Người như vừa thấy, Người đã suốt đời tiên cảm, dự đoán, ước muốn
trong tình yêu, để chuộc lại lỗi lầm của chúng ta. “Người bị nộp vì Người đã muốn” (Is 53,7). Người đã điều khiển tất
cả cuộc Khổ nạn của mình, chằng tránh một khổ hình nào cả; Người chấp nhận các
hậu quả sinh lý của cuộc Khổ nạn, nhưng không hề bị chế ngự mảy may. Người chết
khi Người muốn, như Người muốn và vì Người muốn.
Chúa Giê-su
còn hấp hối cho đến tận cùng thời gian.Thật là tốt đẹp, chính đáng việc chúng
ta phải đau khổ với Người khi Người gởi đau khổ đến cho chúng ta để tham gia
vào khổ đauNgười đã gánh chịu. Chúng ta phải hoàn tất, như thánh Phao-lô nói,
những gì còn thiếu trong cuộc Khổ nạn của Chúa Ki-tô, và phải cùng với Đức
Maria, Mẹ Người và Mẹ chúng ta, mà chấp nhận việc đồng khổ nạn của chúng ta một
cách vui tươi, yêu mến.
Lạy Chúa
Giê-su, Đấng đã không xót thương mình là Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ
có tội.
Linh mục Phê-rô Phan
Văn Lợi lược dịch từ Pháp ngữ và sưu tầm hình ảnh minh họa
0 comments :
Post a Comment