Chuyến công du
liên hoàn “Trung trước, Mỹ sau” của ông Phạm Bình Minh, phó thủ tướng
kiêm ngoại trưởng, vào Tháng Tư năm nay rốt cuộc tiếp nhận được cái gì?
Hai “thành tích”
Tại Bắc Kinh,
ông Minh có cuộc tiếp xúc với những nhân vật trong Bộ Chính Trị Đảng
Cộng Sản Trung Quốc. Nhưng cũng như kết quả chuyến công du của Tổng Bí
Thư Nguyễn Phú Trọng đi Trung Quốc vào Tháng Giêng, hầu hết các trao đổi
vẫn chỉ là lời nói xã giao “ấm tình đồng chí” nhưng không có giải pháp
cụ thể nào, đặc biệt là giải pháp về tiền theo cách “hỗ trợ tín dụng để
chế độ Việt Nam ổn định chính trị.”
Còn tại
Washington, DC, ông Minh cũng được gặp những quan chức cấp cao, trong đó
đặc biệt là ngoại trưởng và cố vấn an ninh quốc gia. Thành quả lớn nhất
và có vẻ bất ngờ nhất là chính cố vấn an ninh quốc gia, chứ không phải
giới ngoại giao của Mỹ, trao cho ông Minh bức thư của Tổng Thống Donald
Trump mời Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc thăm Mỹ. Động thái này diễn ra ngay
sau khi Phó Tổng Thống Mike Pence thông báo tại Indonesia rằng ông
Trump sẽ dự hội nghị APEC tại Việt Nam vào Tháng Mười Một. Đó là một kết
quả lớn mà theo một chuyên gia phân tích chính trị của Mỹ, điều này
khiến giới lãnh đạo Việt Nam hưng phấn và hy vọng hẳn lên, đặc biệt
trong bối cảnh Việt Nam đang phải chịu quá nhiều sức ép về quá nhiều
phương diện từ kinh tế, quốc phòng và xã hội.
Một kết quả
khác, tuy không được rõ nét như kết quả trên, nhưng cũng có thể được xem
là “kết quả” trong chuyến đi của ông Minh: báo đảng Việt Nam tường
thuật “Hoa Kỳ ủng hộ việc Việt Nam tiếp tục được hưởng các nguồn vốn vay
ưu đãi IDA của Ngân Hàng Thế Giới (WB) phù hợp với điều kiện của Việt
Nam trong giai đoạn tới cũng như các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ
APEC.”
Cần nhắc lại,
IDA là một định chế tài chính của WB cho vay tín dụng lại suất ưu đãi
dành cho các nước nghèo trên thế giới. Nhiều năm trước, trong khi luôn
tìm nhiều cách để trưng bày thành tích “hóa rồng” và GDP lên đến 7-9%
hàng năm cùng thu nhập đầu người lên đến vài ba ngàn đô la, giới lãnh
đạo Việt Nam lại hành động ngược lại khi miệt mài xin tín dụng và viện
trợ không hoàn lại. Lý lẽ đưa ra: Việt Nam là một quốc gia… vẫn còn
nghèo.
Nhưng đến cuối
năm 2015, với những thành tích tăng trưởng mà Việt Nam tự khoác lên
mình, WB đã quyết định chấm dứt các chương trình cho vay ODA ưu đãi và
bắt buộc Việt Nam phải tốt nghiệp IDA, nghĩa là sẽ phải vay tín dụng của
WB với lãi suất cao hơn cùng thời gian ân hạn giảm đi. Đến lúc này, một
hiện tượng lạ xảy ra: “Học sinh” Việt Nam tìm cách để được “lưu ban,”
tức muốn được kéo dài thời gian vay ưu đãi IDA càng lâu càng tốt.
Tuy nhiên, đó là tất cả cho chuyến đi Mỹ của ông Phạm Bình Minh.
Sau tất cả, đã không có bất kỳ một hơi hướng hay manh mối nào về Hiệp Định Thương Mại Song Phương Việt-Mỹ (BTA).
BTA đâu rồi?
Sau chuyến đi
Mỹ của ông Phạm Bình Minh, những tờ báo đảng tường thuật chi tiết nhất
về những nội dung đã được mang ra bàn thảo Việt-Mỹ đã không một lời nhắc
đến bản hiệp định mà giới lãnh đạo Việt Nam đang mong đợi, và hẳn là
mong muốn hơn bao giờ hết.
Cần nhắc lại,
chuyến công du Hoa Kỳ của ông Phạm Bình Minh được giới phân tích chính
trị Hoa kỳ thông tin là một chuyến đi dọn đường cho cuộc thăm viếng Hoa
Kỳ tiếp theo của Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc.
Lại có nhiều
dấu hiệu cho thấy nhu cầu và mối quan tâm đầu tiên và trên hết của Việt
Nam vẫn là thương mại song phương với Hoa Kỳ, sau đó mới là những chủ đề
về “xoay trục sang Châu Á – Thái Bình Dương” và “giao lưu” quân sự –
quốc phòng Việt-Mỹ ở khu vực Biển Đông. Nhu cầu và mối quan tâm ấy ồn ã
hẳn lên từ sau khi Hiệp Định Đối Tác Kinh Tế Xuyên Thái Bình Dương (TPP)
hầu như tan vỡ kể từ Tháng Mười Một, 2016 – khi Tổng Thống Trump tuyên
bố đoạn tuyệt với hiệp định này, cũng chấm dứt luôn công sức cùng hy
vọng kéo dài suốt sáu năm đàm phán của Việt Nam.
Sau 15 năm thực
hiện BTA mà đã khiến phi mã giá trị giao thương Việt-Mỹ đến hàng trăm
lần, giờ đây, chính quyền của Tổng Thống Trump đang tiến hành rà soát
lại toàn bộ BTA này. Việc rà soát này xuất phát từ lời lên án của ông
Trump về 16 quốc gia có thương mại song phương “gây hại” cho kinh tế Hoa
Kỳ, trong đó có Việt Nam.
Một hệ quả rất
không mong đợi đối với Việt Nam là nếu Mỹ “siết” các điều kiện thương
mại như đánh thuế xuyên biên giới, dựng đứng hàng rào kiểm nghiệm chất
lượng đối với hàng hóa Việt Nam mà trước đó cá basa, tôm, gạo đã trở
thành “nạn nhân,” đồng thời ngưng trệ BTA hoặc làm cho hiệp định này trở
nên khó khăn hơn nhiều so với 15 năm trước đó, giá trị xuất siêu hàng
năm của Việt Nam vào Hoa Kỳ sẽ tụt hẳn.
Trong khi đó,
một nguồn “ngoại lực” khác là kiều hối về Việt Nam cũng đang sụt mạnh
đến hơn $4 tỷ trong năm 2016 so với năm 2015, báo hiệu một chu kỳ khó
tránh thoát về suy giảm tình cảm của “kiều bào ta” đối với chế độ cầm
quyền, càng khiến chân đứng của chế độ này dễ bị vỡ vụn hơn bao giờ hết.
Nhưng muốn có
được BTA lại không hề dễ dàng. Một BTA với Việt Nam được không chỉ do
hành pháp mà còn là do Quốc Hội Hoa Kỳ quyết định.
Còn nhớ vào năm
2015, chỉ riêng định chế quyền đàm phán nhanh (TPA) nằm trong TPP mà
chính quyền của Tổng Thống Barack Obama đã phải trình ra hai viện của
Quốc Hội Mỹ và đã phải bỏ phiếu đến nghẹt thở 3-4 lần mới thông qua
được. Còn nay, trong bối cảnh hàng hóa nước ngoài đang có xu thế tràn
ngập nước Mỹ và khiến sụt giảm giá trị xuất siêu của Mỹ, đồng thời làm
tăng tỷ lệ thất nghiệp tại nước này, chắc hẳn ông Trump sẽ không thể
nhiệt tình đối với BTA cho Việt Nam mà không có những điều kiện đặc biệt
kèm theo. Lối suy nghĩ và cách thức hành xử của ông Trump chắc chắn sẽ
ảnh hưởng tới nhiều thượng nghị sĩ đảng Cộng Hòa và cả đảng Dân Chủ
trong Quốc Hội Mỹ khi nhìn thấy bản dự thảo BTA trước mặt.
Trong lúc đó,
nhóm dân biểu quan tâm đến Việt Nam trong nhóm Vietnam Caucus đang trở
nên hùng mạnh và ngày càng có tiếng nói mạnh mẽ trong Quốc Hội Hoa Kỳ.
Dân Biểu Alan Lowenthal (Dân Chủ-California) là một trong những nhân vật
như vậy. Vào đầu Tháng Tư, sau việc phía Việt Nam nêu ra một lời đánh
tiếng để Thủ Tướng Phúc “sẵn sàng đi thăm Mỹ,” ông Lowenthal đã nói
thẳng với Đài Á Châu Tự Do: “Tôi khẳng định với ngài đại sứ (Ted Osius)
rằng Việt Nam muốn tăng cường mối quan hệ thương mại và ký kết BTA thì
phải trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm. Nếu họ không làm thế thì
không thể có BTA. Tùy thuộc vào chính phủ Việt Nam thôi! Đây là thông
điệp của tôi chuyển đến chính phủ Việt Nam.”
Thế nhưng giới lãnh đạo Việt Nam có làm gì để cải thiện nhân quyền?
Còn EVFTA?
Cho tới nay,
vẫn chưa hiện ra bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy giới lãnh đạo Việt Nam
chịu nhân nhượng bất kỳ nội dung nào trong “gói cải thiện nhân quyền” mà
người Mỹ, một lần nữa trong không biết bao nhiêu lần, đặt lại. Thậm chí
Luật Về Hội và Luật Biểu Tình – những quyền căn bản quá thiết thân của
người dân mà Hiến Pháp Việt Nam từ năm 1992 hứa hẹn nhưng đã bị giới
lãnh đạo Việt Nam nuốt lời suốt một phần tư thế kỷ qua, vào Tháng Tư năm
nay bị Bộ Công An, chính phủ của ông Nguyễn Xuân Phúc, cùng Quốc Hội
của bà Nguyễn Thị Kim Ngân rút khỏi chương trình bỏ phiếu thông qua luật
năm 2017 và cả năm 2018.
Hãy đề cập đôi
chút về chuyến công du ba nước Châu Âu là Thụy Điển, Hungary, và Czech
của Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân vào Tháng Tư năm nay.
Chuyến đi mang
một mục đích đặc biệt là “thúc đẩy quốc hội ba nước ủng hộ việc ký chính
thức, phê chuẩn Hiệp Định Thương Mại Tự Do Việt Nam-EU (EVFTA).”
Đáng lý ra,
trách nhiệm vận động các nước thành viên thông qua EVFTA là của Nghị
Viện Châu Âu. Nhưng hẳn do tình thế đã biến diễn như thể “nước đã đến
chân,” giới chóp bu Việt Nam không thể ngồi rung đùi chờ đợi Châu Âu
thông qua EVFTA như cách người Mỹ đã mang BTA đến tận miệng cho Việt Nam
16 năm trước, hay Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) đặc cách xét cho
Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này vào năm 2007. Mọi
chuyện đã trở nên khó khăn hơn rất nhiều, đặc biệt sau khi TPP hầu như
tan vỡ.
Một cách nào
đó, chủ tịch quốc hội Việt Nam đã làm thay công việc vận động của Nghị
Viện Châu Âu. Cũng có thể hiểu một cách nào đó, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú
Trọng phải làm mọi cách để tìm ra một hiệp định thương mại thay thế cho
TPP chết yểu, cũng là cách để ông có được thành tích mang lợi ích kinh
tế về cho đảng và do đó sẽ kéo dài tuổi thọ tổng bí thư của ông. Rất có
thể đó là lý do chính yếu mà ông Trọng “đẩy” bà Ngân đi Châu Âu vận động
EVFTA với tư cách “kênh quốc hội,” bất chấp chính thể Việt Nam vẫn hoàn
toàn không quan tâm và càng không hề tôn trọng nhân quyền theo yêu cầu
của EU.
Nhưng khác hẳn
với quan điểm nhẹ nhàng những năm trước về nhân quyền Việt Nam, từ sau
khi bị một số tổ chức nhân quyền quốc tế thẳng thắn phê phán, EU bắt đầu
chuyển sang thái độ mạnh mẽ hơn trong việc đòi hỏi chính quyền Việt Nam
phải cải thiện nhân quyền. EVFTA chính là một bằng chứng khi hiệp định
này lần đầu tiên đã gắn điều kiện Việt Nam phải cải thiện nhân quyền với
lộ trình triển khai các điều ước thương mại.
Kết quả đáng
thất vọng đối với phái đoàn của bà Nguyễn Thị Kim Ngân là sau các cuộc
làm việc ở Châu Âu, không có bất cứ một khoản viện trợ không hoàn lại
nào được phía chủ nhà thông báo dành cho Việt Nam. Ngay cả Thụy Điển –
vốn được Việt Nam hy vọng nhất về “tình cảm rất đặc biệt trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ” – cũng không còn tỏ ra hào phóng như thường biếu
một số tiền viện trợ không hoàn lại vào những lần giới lãnh đạo Việt Nam
thăm Thụy Điển những năm trước. Thậm chí, lãnh đạo Quốc Hội Thụy Điển
cũng không hứa hẹn bất kỳ điều gì liên quan đến viện trợ không hoàn lại
trong thời gian tới cho Việt Nam. Hẳn quốc gia này vẫn chưa thể quên
việc họ đã bắt buộc phải ngừng vô thời hạn các khoản viện trợ ODA cho
Việt Nam vào năm 2013 sau khi phát hiện hàng loạt gian dối của quan chức
Việt. Sau đó cả Bộ Ngoại Giao Úc và vài quốc gia khác cũng bắt đầu cắt
giảm viện trợ.
Trong khi không
nhận được khoản viện trợ nào, đoàn “quốc tế vận” của bà Kim Ngân cũng
không có được văn bản cam kết nào của quốc hội ba quốc gia này là “sẽ
thúc đẩy để Liên Âu sớm phê chuẩn EVFTA.” Tất cả chỉ là nói miệng theo
lối xã giao mà chẳng có gì chắc chắn!
Muốn EVFTA được
thông qua, phải có sự thống nhất của quốc hội thuộc 27 nước thành viên.
Sự đồng thuận giữa các nước EU lại tương đối cao về vấn đề nhân quyền.
Chỉ cần vài nước không thông qua thì EVFTA sẽ bị khựng lại.
Cho tới Tháng
Tư, Việt Nam vẫn chưa có được manh mối đáng hy vọng nào cho cả EVFTA lẫn
BTA. Tương lai gần rất dễ nhận ra là nếu không có những cải thiện đáng
kể nào về nhân quyền từ giới lãnh đạo Việt Nam, chuyến đi Mỹ sắp tới của
Thủ Tướng Phúc sẽ trở nên công cốc.
0 comments :
Post a Comment