Câu
chuyện của cha Andrea là một trong mười lăm mẫu truyện
kể lại trong quyển « Những mục tử anh hùng, nhân chứng
của đức tin ở thế kỷ 21 ». Những cuộc sống can
trường, những tính khí phi thường, những con người của
sứ mạng và của lòng trắc ẩn. Trong một thế giới
hung hăng hiếu chiến hôm nay, mỗi một câu truyện kể
ra, tự nó trở thành một lời tri ân vô vàn đến hàng
giáo sĩ. Phần lớn những vị kể trên đều đi đến sự
hy sinh cuối cùng, họ hiến dâng đời mình vì tình yêu
Chúa và cho dân chúa. Điều ấy chứng minh rằng đến
thiên kỷ mới này mà thế giới vẫn không tránh khỏi
nạng đàn áp bức hại. Đối với chúng ta, những vị
mục tử hùng dũng ấy trong nhiều trường hợp đã là
những người tuẩn đạo.
Nguyễn Đông phỏng dịch
Những
mục tử anh hùng.
Chứng
nhân của đức tin ở thế kỷ XXI
Prêtres
héroïques – Témoins de la foi au XXIe siècle
«
Nếu ánh sáng của Đức Giêsu soi sáng chúng ta, và hướng
dẫn cuộc đời chúng ta, thì nó cũng soi sáng tất cả
tình huống này, và nhờ đó, chính chúng ta cũng trở
thành ánh sáng..»
Những
dòng chử trên của cha Andrea Santoro quả không đến bằng
những cảm xúc vu vơ mơ hồ. Viết ra trước ngày bị ám
sát, câu nói ấy biểu lộ hẳng lên bản sắc của đức
tin qua lời nói và hành động. Là nột linh mục nhân từ
mộ đạo, cha sống tận tụy với những người nghèo khổ
nhất, những người không nhà cửa, những người buôn
dâm. Trong Sứ mệnh mục vụ của mình cha không ngừng lại
ở giới hạn nào cả. Đối với các tín hữu quay quần
bên cha vào những buổi lễ chủ nhât ( mi-sa) ở nhà thờ
Trazbon bên bờ Hắc Hải, cha là nguồn hy vọng còn lại
giửa những muôn vàn khó khăng. Thế nhưng vào tháng hai
năm 2006, cuộc sống sáng ngời ấy lại bị phá vở đi
quá sớm bời một nhóm cuồng đạo quá khích, họ dùng
súng ám sát trong lúc cha đang cầu nguyện trong nhà thờ.
Câu
chuyện của cha Andrea là một trong mười lăm mẫu truyện
kể lại trong quyển « Những mục tử anh hùng, nhân chứng
của đức tin ở thế kỷ 21 ». Những cuộc sống can
trường, những tính khí phi thường, những con người của
sứ mạng và của lòng trắc ẩn. Trong một thế giới
hung hăng hiếu chiến hôm nay, mỗi một câu truyện kể
ra, tự nó trở thành một lời tri ân vô vàn đến hàng
giáo sĩ. Phần lớn những vị kể trên đều đi đến sự
hy sinh cuối cùng, họ hiến dâng đời mình vì tình yêu
Chúa và cho dân chúa. Điều ấy chứng minh rằng đến
thiên kỷ mới này mà thế giới vẫn không tránh khỏi
nạng đàn áp bức hại. Đối với chúng ta, những vị
mục tử hùng dũng ấy trong nhiều trường hợp đã là
những người tuẩn đạo.
Sách
cũng lược kể cuộc đời của các ngài đã sống theo
lời huấn dụ « Ra khơi thả lưới » ( Duc in Altum) của
Đức thánh cha Gioan Phaolô II.
Không ngại sóng gió nguy nan, các cha đem phúc âm đến
những vùng xa xôi hẻo lánh và nhất là cho những ai đang
khao khát chờ dợi tin mừng. Mối ưu tư mục vụ của các
ngài đối với những người bất hạnh, cuộc sống vô
vị lợi cũng như nhiệt tâm kết hợp đông đảo mọi
người vào công trình sinh hoạt của mình đã thắp lên
những niềm vui hy vọng sáng ngời trong lòng người dân
bị bóp chết bởi bất công nghèo đói. Những phản ứng
như thế của các cha phần lớn là do những lời hứa hẹn
chính trị sáo rỗng. Nên hết lòng đứng về phía những
người bị bỏ rơi, các cha tự nguyện dấn thân cho họ,
cho những người bị xem như cặn bã của xã hội.
Trong
hướng ấy, Hội từ thiện AED (Oeuvre de charité) cho xuất
bản quyển « Những mục tử anh hùng ». AED là
một tổ chức từ thiện công giáo, ngay từ những ngày
kinh hoàng đầu tiên của Cộng sản sau chiến tranh đã
từng nâng đở những linh mục quyêt tâm bảo vệ ngọn
lửa đức tin trong những giờ đen tối nhất của lịch
sử. Thường thì AED cộng tác chặt chẻ với các vị
được lựa chọn đúng theo quy định của hội là tìm
cách giúp đở những con dân của chúa trong lúc khó khăng
hoạn nạn. Trên nhiều mặt, cuộc đời của họ có nhiều
điểm trùng hợp với tấm gương của Cha Wienfried van
Straaten, người Hoà Lan sáng lập ra hội mà các thế hệ
sau thường nhắc đến với biệt danh « Cha Béo ».
Cha cũng là người có những phẫm chất đặc biệt như
các vị linh mục anh hùng ấy. Sau đệ nhị Thế Chiến,
ở Bỉ và Hoà Lan cha kêu gọi dân chúng hảy bỏ qua
những thành kiến xưa củ với người Đức đễ giúp đở
họ, những cựu thù đang sống cảnh đói khát bơ vơ
ngoài trời. Đối với những người bị áp bức sống
sau bức màn sắc cs hoặc ở những xứ độc tài tương
tự cha là tiếng nói của họ, cha dấn thân vào hiểm
nguy đễ an ủi họ về mặt tinh thấn cũng như vật chất.
Do đó không phải ngẫu nhiên mà lúc cha mất, Đức thánh
cha Gion Phaolô II đã gọi cha là « một Tông Đồ nổi
bật của lòng từ nhân ».
Một
vị Giáo Hoàng khác, Đức thánh cha Bénoit XVI còn di xa hơn
nữa về thừa tác vụ linh mục khi công bố « năm
linh mục » vào năm 2006. Dựa theo lời của thánh Jean
Marie Vianney mô tả Phụng vụ chính là « Tình thương
trong tim Chúa » Đúc Cha có ghi lại trong thư mở đầu
năm linh mục rằng : « Làm sao mà không vinh danh
được những công khó tông đồ, những nổ lực thầm
lặng không ngừng nghỉ và lòng phiếm ái của hàng linh
mục ngày nay ? » Thư của Đức cha Bénoit XVI nhấn
mạnh rõ rằng trong nhiều trường hợp, các linh mục ấy
là những vị anh hùng trong bóng tối. Sự chứng đức tin
và lòng cậy trông của các cha rất ít người biết đến
và càng ít ai thông hiểu.
Vào
lúc mà hình ảnh của giáo hội bị mờ đi vì những hành
vi gây lo âu và đau buồn thì hơn bao giờ hết, là lúc
nên nhắc lại trong tác vụ giáo dân có rất nhiều mục
tử như thế đã rước chúa vào tâm hồn của biết bao
người dân. Và AED tình nguyện nâng đở những vị như
thế. Nhờ vào các vị ân nhân, hội có thể hằng năm
giúp sức cho khoảng 25 000 linh mục dưới hình thức thánh
lễ, học bổng phổ thông hoặc giáo lý. Thực tiển hơn
là giúp đở phương tiện giao thông, nhà cửa phòng trọ.
Đấy là chưa kể đến những khoá tu học hằng năm trên
thế giới cho khoảng 15 000 giáo sinh.
AED
cộng tác mật thiết với rất nhiều vị xứng đáng như
anh hùng nhưng vì khuông khổ của quyển sách có giới hạn
nên buộc chúng tôi chỉ giới thiệu một phần nhỏ trong
số các vị ấy. Việc lựa chọn không nhằm mục dích
tuyên thánh dù rằng sau này họ rất xứng đáng nhận
phần danh dự ấy. Đúng ra do chỉ dấu đức tin khiêm tốn
và nghị lực can trường mà các cha được xếp đặt vào
quyển sách này. Qua đó, AED muốn tỏ lòng biết ơn đến
các vị còn sống hay đã mất đã dày cộng phụng sự
giáo dân. Mong sao cho câu truyện của nhóm nhỏ ít oi này
sẽ « soi sáng mọi tình huống » như lời cha
Andrea Santoro đã nói. Nó sẽ chiếu sáng cho những thế hệ
linh mục trẻ mai sau nguyện lòng phụng sự chúa và giáo
dân.
John
Pontifex
Phỏng
dịch
Cha
Thadeo Nguyễn văn Lý
Cha
Thadeo Nguyễn văn Lý được thế giới biết đến vì lòng
can đảm đấu tranh cho tự do tôn giáo ở Việt Nam và cái
giá mà cha hảy còn đang gánh vác ngày hôm nay.
Sinh
ngày 31 tháng tám năm 1947 tại tỉnh Quảng Trị (Trung
phần), Cha Thadeô Nguyễn văn Lý chiụ chức linh mục vào
năm 1974 trước khi đất nước bị thống nhất dưới ách
thống trị của cộng sản. Cha Lý được bổ nhiệm sau
đó làm thư ký cho ĐTGM Nguyễn Kim Điền (+1988), một vị
giám mục thật dũng cảm.
Ngay
từ tháng bảy năm 1977, Cha Lý bị bắt giam vì ngài phổ
biến 2 bài tham luận của ĐGM lên án nhà cầm quyền đàn
áp tôn giáo. Tức khắc sau khi bị bắt, ngài bị kết án
20 năm tù và bị giam tại một tại cải tạo gần Huế.
Vài tháng sau, cha được thả ra với điều kiện cấm
ngặt mọi sinh hoạt tôn giáo. Nhưng cha vẫn tiếp tục
phục vụ dạy giáo lý cho dân.
Tiếp
đến việc dấn thân của Cha Lý pha lẫn với những giờ
phút đầy sóng gió trong cuộc hành hương La Vang mà Cha
trở thành một trong những người phụ trách chính. La
Vang là một địa danh rất nổi tiếng có Đức Mẹ hiển
thân nhưng cũng là nơi bị công an kiểm soát rất gắt
gao. Vào năm 1982, mặc dù bị đe dọa nhưng Cha Lý vẫn
cùng đi với một số giáo dân đến thánh địa. Lúc ấy
UB nhân dân xã muốn tước bỏ cương vị linh mục và
buộc Cha phải về ở với gia đình của cha mẹ (thâm ý
của họ làm cho Cha hoàn tục). Nhưng không những từ chối
nghe theo lệnh ấy mà cha còn dùng ống loa đễ tố cáo
NCQ đàn áp tôn giáo và đòi hỏi quyền tự do tín ngưỡng
cho người công giáo. Được đồng bào bảo vệ, NCQ đã
phải huy động hơn 200 công an đến đễ bắt cha đi. Vào
năm 1983, CSVN đưa Cha ra toà ở Huế. Cha bị tuyên án 10
năm tù và 4 năm quản chế. Sau khi ra tù vào tháng bảy
năm 1992, Cha Lý tiếp tục bị quản chế và cấm tuyệt
không được có bất cứ sinh hoạt tôn giáo nào, kể cả
việc cử hành lễ.
Bị
đày đi an trí tại làng Thủy Biều ở với nhóm giáo dân
nhỏ nhoi, nơi đó Cha lập ra một đường dây tương trợ
cho người nghèo, giúp đở cho những người lớn tuổi,
mở lớp dạy vi tính cho các bạn trẻ mà không cần phải
xin xỏ đơn từ gì liên quan đến sinh hoạt tôn giáo.
Đến
tháng mười một năm 1994, Cha công bố bản « Tuyên
ngôn mười điểm về thực trạng giáo hội công giáo tại
giáo phận Huế. » mà trong đó cha vạch ra những vi
phạm của NCQ về quyền tự do tín ngưỡng. Vào tháng
mười một năm 2000, Cha phổ biến lại bản tuyên ngôn ấy
nhưng kèm theo lời kêu gọi « Chúng tôi cần có tự
do tôn giáo thật sự tại Việt Nam. »
Tháng
mười hai năm 2000, phản đối việc NCQ hạn chế các sinh
hoạt tôn giáo và đòi lại tài sản của nhà thờ bị
tịch thu, cha Lý và giáo dân căng lên trên một mãnh đất
của giáo xứ khẩu hiệu « Chúng tôi cần có tự do tôn
giáo thật sự » và « Tự do tôn giáo hay là chết! ».
Những hình ảnh ấy lan truyền khắp nơi trên thế giới.
Cha còn viết thư đến Hội Đồng Giám Mục khẩn xin «
các giám mục cứ truyền chức linh mục và bổ nhiệm vào
các giáo xứ cho các chủng sinh có đủ đạo hạnh và khả
năng mà không phải xin phép bất cứ nhà cầm quyền thế
tục nào.»
Đầu
năm 2001 NCQCS quấy rối dữ dội và cô lập cha Lý khi cha
bắt đầu gửi đi những thông điệp trên khắp hoàn cầu
qua mạng lưới Internet. Đối với CS, xem như vượt sức
tưởng tượng của họ khi cha tường trình với một nhóm
dân biểu Quốc Hội Hoa Kỳ về tình hình nhân quyền và
qua đó cha tán thành việc áp lực kinh tế đễ buộc việt
nam phải mỡ rộng tự do tôn giáo.
Ngày
17 tháng 5 năm 2001, dù có sự kháng cự quyết liệt của
đông đảo đồng bào, hơn 200 công an tràn ngập vào nhà
thờ xứ và bắt cha Lý đi. Sau đó cha bị kết án vào
ngày 19/10, 15 năm tù với 5 năm quảng chế với tội « phá
hoại chính sách đoàn kết dân tộc » và « không
chấp hành quyết định quản chế hành chính. » Theo
báo Nhân Dân thì « kẻ phản quốc NV Lý phải nên
vui mừng đã nhận một bản án quá nhẹ nhàng » !
Tuy vậy dưới áp lực quốc tế, bản án giảm đi đần
dần 10 năm, 5 năm rồi sau cùng là 3 năm : ba năm chiụ
tù ngục ở trại Ba Sao Bắc Việt. Cha Lý bị giam trong
một khu riêng biệt hoàn toàn cách ly với các tù nhân
khác trong trại. Trừ gia đình ra, cha không được liên
lạc với bất kỳ ai nhưng gia đình cũng không nhận được
thu từ nào của cha cả ! Thăm nuôi thì chỉ được
15 phút mỗi 4 tháng ! Đến độ tài xế taxi chở thân
nhân đến thăm cũng thành đối tượng bị đe doạ. Nhưng
đau đớn nhất đối với cha là NCQ đàn áp những người
thân thuộc trong gia đình đễ áp đảo tinh thần của
cha bằng cách sai công an bắt giam hai người cháu trai
và một ngưòi cháu gái đễ hạch hỏi điều tra và gán
cho tội làm « gián điệp ».
Chọn
lúc Tết năm 2004, tháng hai tây lịch, NCQ thả cha ra đễ
quản thúc tại Nhà Chung ở Huế. Tháng Tư 2006, cha cùng
với một vài người thảo ra bản Tuyên ngôn dân chủ
nhân quyền cho Việt Nam. Tiếp theo đó, cả nhóm cùng nhau
qua bản tuyên ngôn đặt cho tên nhóm Khối 8406, tên dựa
theo ngày viết ra văn kiện này. Đến ngày 19/07/2007 cha
lại bị bắt vì chủ trương tờ báo ngầm Tự Do Ngôn
Luận. Vật dụng dồ dùng bị công an niêm phong và tịch
thu. Cha Chân Tín và cha Phan văn Lợi thì bị quản chế.
Riêng Cha Lý lúc ấy bị quản chế ở Bến Củi cách Huế
20 km thì bị kết án 8 năm tù vào ngày 30/03/2007, rồi đem
giam ở trại Ba Sao sau một phiên toà hối hả không luật
sư biện hộ. Bức ảnh cha bị công an bịt miệng trong
phiên toà đã đi vòng quanh cả thế giới.
Từ
tháng 5/2009 trở đi, Cha Lý bị ba lần tai biến mạch não
do khối u ở não không được chữa trị. Được gia đình
cho biết, ĐGM Huế cử LM Lê Quang Quý và Lê Quang Viên đến
yêu cầu bộ công an cho LM Lý được sớm trở về GP Huế
đễ được chăm sóc cẩn thận hơn. Ngày 17/09, hai cha
dược vào thăm cha Lý trong tù. Vui mừng và biết ơn
trước sự quan tâm của ĐGM và của các cha, Cha Lý đã
gửi đến quý cha lời cấu nguyện hiệp thông của cha
trong thánh thể. Kế đến cha tỏ ý không muốn đi điều
trị ở bệnh viện theo đề nghị của ĐGM vì theo lời
cha nói « bên cạnh con, biết
bao anh em khác cũng đang đau ốm, nhưng không được săn
sóc cách đặc biệt như con ».
Ngày
15/03/2010, cha Lý ra tù với một phần thân thể bị bại
liệt. Cha chỉ được tạm thi hành án trong thời hạn 12
tháng đễ chửa bệnh và sau đó phải quay trở lại nhà
tù Ba Sao. Theo thông báo của công an thi « Việc phạm nhân
Nguyễn Văn Lý được tạm đình chỉ thi hành án phạt
tù, về địa phương chữa bệnh theo quy định của pháp
luật Việt Nam, thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng
và Nhà nước ta. »
Vừa
sau khi được đưa về nhà Chung GP Huế, cha đã có ngay
một buổi phỏng vấn của báo chí. Người ta thấy ba năm
tù ấy có làm suy giảm về mặt sức khoẻ nhưng không hề
làm tổn thương đến niềm tin vững chắc của cha. Cha
còn khẳng định là không nhìn nhận tính cách bất hợp
pháp của bản án xử năm 2007, vì nó « vừa bất
công vừa không đúng với luật pháp quốc tế.» Trong các
mẫu khai in sẳn buộc phải ký, cha đều thay thế danh từ
«tội phạm » bằng từ « tù nhân lương tâm».
Cho
đến nay, cha Lý đã bị tổng cộng là hơn 16 năm tù.và
cũng là một trong số hơn 400 tù nhân lương tâm ở Việt
Nam. Trường hợp của cha nhắc nhở cho thế giới rằng
người ta không thể bóp nghẹt tiếng nói của lương tâm
cũng không bịt miệng được sự thật.

0 comments :
Post a Comment